Tuesday 29 November 2011

Trần Kỳ Trung - Liều, lỗ, lừa, lách, lươn lẹo…


Trần Kỳ Trung
 
Cái vần “L” tưởng khó ghép nhiều từ, ấy thế trong thực tế xã hội ta, nó lại được nhiều người nhắc đến.

Sao ở nước ta giờ lắm thằng “liều” thế! Một vần có “L” nhé. Có thằng chưa đến tuổi thành niên, thế mà dám cầm dao lao vào tiệm vàng chém chết ba người để cướp… Chuyện không đội mũ bảo hiểm, bị công an giữ lại. Không sợ! lao luôn xe vào cảnh sát để tìm cách đào thoát… thậm chí dám đâm chết công an khi bị bắt… còn nhiều chuyện “liều” bất chấp luật pháp, bất chấp người thực thi công vụ, không ngày nào báo chí không đưa tin đủ các lĩnh vực từ giao thông, xã hội, kinh tế…
Nghĩ kinh cả người.

Còn chuyện “Lỗ”, cũng thêm một vần “L” thì khủng khiếp! Nhất là mấy Tổng công ty nhà nước từ đóng tàu, xi măng, cảng, xăng dầu, xây dựng… toàn thấy “Lỗ” , không phải lỗ nhẹ, mà lỗ nặng, lỗ hàng nghìn tỷ đồng. Lỗ toàn tiền nhà nước mà thực chất là tiền của dân, ăn cướp của dân…

Đọc xong bảo không bi quan mới là chuyện lạ. Không biết cứ như thế này thì kinh tế Việt Nam sẽ đi về đâu!

Rồi đến chuyện “lừa” trong xã hội, vần “L”có lẽ nghe đã quen tai. “Lừa” đủ kiểu, đủ ngành… từ bảo hiểm, đến vay nợ, mua bán bất động sản, bán hàng đa cấp, chữa bệnh của phòng khám bệnh Trung Quốc, lừa cả ngân hàng… có vụ lừa đảo lên đến cả hàng trăm tỷ đồng. Chưa kể những vụ lừa đảo mang yếu tố nước ngoài làm cho dân ta điêu đứng như vụ dưa hấu, trồng sắn, chuối…
Chẳng lẽ xã hội chúng ta có luật pháp, có công an, tòa án… mà để thế ư!

“Lật lọng” mới ghê! Người dân nghèo nghe vần “L” này chỉ còn sự căm tức. Khi lấy đất của dân nghèo để quy hoạch khu CN hay làm khu du lịch, mấy tay chủ dự án hứa với dân rất nhiều từ chuyện đền bù đến chuyện tạo công ăn việc làm…đến chuyện giải quyết khó khăn kinh tế. nhưng đến khi lấy xong đất của dân rồi, lật lọng không thực hiện lời hứa… mặc cho đời sống dân nghèo thậm khổ…
Không công ăn việc làm, không đất, con cái thất học…nỗi khổ của dân kêu trời không thấu.

Lo lót! Vần “L” này nhắm mắt cũng nhìn thấy.
Chỗ nào chẳng phải lo lót. Lo lót diễn ra dưới nhiều hình thức, nhiền kiểu từ chuyện xin việc , chạy chức, lên lương, chuyển công tác, chạy án, xử phạt hành chính, xưe phạt giao thông… Cứ có tiền là sẽ giải quyết được mọi vấn đề, đến độ thành câu cửa miệng: “Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn!”.
Lo lót trở thành một tập quán sống, một thói quen… Tại sao lại hình thành một một thói quen xấu đó? Hỏi tức là trả lời!

Vần “Lách” ư ! Cái vần “L” này xuất hiện nhiều trên câu cửa miệng của mấy nhà doanh nghiệp khi nói chuyện làm ăn. Lách thuế, lách hải quan nhập hàng, lách cảnh sát giao thông khi chở hàng… nghĩa là lách đủ kiểu để mưu cầu lợi ích cá nhân. Không bằng cấp, cũng tìm cách có bằng cấp để an tọa chức vụ. Chẳng thế mới có chuyện, một ông tiếng Anh, một chữ bẻ đôi không biết vẫn có bằng “tiến sỹ” bên Mỹ cấp (cho dù đó là bằng giả). Rồi tìm cách “lách” khai man tuổi, để tại vị lâu hơn… Mà kinh khủng nhất là “lách” luật, để tạo điều kiện cho cấp dưới buôn lậu, cho các công ty tư nhân trong nước và nước ngoài khai thác tài nguyên vô tội vạ, phá rừng tràn lan, cướp đất của dân dưới danh nghĩa “quy hoạch, giải tỏa”… Nhìn chỗ nào cũng thấy, báo chí ngày nào cũng có bài về vấn đề này.
Cứ “lách” như vậy, thử hỏi lòng dân có yên không?

Còn “lươn lẹo”, vần “L” này hay được người đời nhận xét khi nghe các “quan” nói. Các quan nói một đằng, làm một nẻo, nói mà không làm, đổ vấy cho người khác, thậm chí sẵn sàng xuyên tạc, bóp méo sự thật… không chịu nhận ra lẽ phải, phủ nhận lòng tốt của người khác, tìm cách bạo biện những khuất tất, những điều dân phản đối…
Chuyện này có rất nhiều, đến độ người ta chán không muốn nói, không muốn nghe nữa bởi những cái miệng “lươn lẹo”.

Đến “Lấp liếm” thì khỏi nói! Mấy ông có chức có quyền khi bị phanh phui ra những vụ tham nhũng, ăn chơi trụy lạc… làm bản kiểm điểm hay bị truy tố ra tòa không bao giờ nhận tội mà lấp liếm rất nhanh, đổ hết do “trình độ hạn chế”, hoặc như “bị kẻ xấu lừa!”,thậm chí còn nói “Những thế lực thù địch tìm cách phá hoại…” để cố bào chữa tội ác của mình. Cuối cùng được cấp trên bao che, mấy ông này nhận những bản án nhẹ hều gây nên sự phẫn nộ trong dư luận…

Nói tóm lại, nếu là nhà nước văn minh, tiến bộ, dân chủ với luật pháp thượng tôn, Quốc Hội có quyền thực sự và nhất là Đảng cầm quyền bản chất đúng là vì dân, nghe dân, coi sự tồn vong của dân tộc lên trên hết thì những vần “L” trên không có điều gì đáng sợ!
Còn không phải thế, không làm được, thì chỉ có “Loạn”.
Mà đến như thế thì vận mệnh đất nước nguy to!

Tác giả gửi cho Quêchoa

Ngọc Lan - Tại sao nhiều ông thích về Việt Nam cặp bồ?


Ngọc Lan
WESTMINSTER (NV) - “Ở đây, người ta nhìn một ông già 70 như tôi, không có xe, không có nhà chẳng khác nào như một thằng cơ hàn.
Trong khi mỗi lần về Việt Nam, tôi thấy mình như ông vua, có thể hét ra lửa được, vì con gái Việt Nam rẻ như bèo, mình có tiền muốn làm gì mà chẳng được.”
Ðó là lý do mà ông Hai Lý cứ chắt mót số lương hưu, khi thấy “vừa đủ” là bay ngay về Việt Nam để được làm người “hét ra lửa.”
Lý do của ông Hai Lý chỉ là một trong số những lý do mà nhiều người đàn ông lớn tuổi, như ông Nghĩa Nguyễn, ông Nguyên Phạm, đưa ra để giải thích cho câu hỏi, “Tại sao nhiều ông thích về Việt Nam cặp bồ?”

Từ cảm giác ‘không có chỗ đứng ở Mỹ’...

Thấy mình “không có chỗ đứng ở Mỹ” là cảm giác của ông Nghĩa Nguyễn, người sắp mừng thọ 75 tuổi và là cư dân thành phố Orange.
Không xuất thân là một tướng tá lên xe xuống ngựa có người săn đón, nhưng hình ảnh của người chồng, người cha trụ cột trong nhà, một viên chức hành chánh của một quận trước 1975, đã khiến ông Nghĩa Nguyễn trở nên có uy quyền đối với vợ con, một lời ông nói ra là “cả nhà ai cũng sợ.”
Như một kiểu gia đình nề nếp, gia giáo, nên dù có lúc “giận nhau bầm gan tím ruột” vợ ông cũng không bao giờ bộc lộ ra ngoài cho con cái hay người ngoài biết để mà còn “giữ thể diện gia đình.”
Năm 1995, lúc ông Nghĩa về hưu cũng là lúc vợ chồng ông sang Mỹ theo diện con cái bảo lãnh. Với ông, cuộc sống ở Mỹ khi đó “giống như địa ngục.”
Bởi, ông “không biết lái xe, không biết tiếng Anh, xin đi làm thì không ai nhận.” Những đứa con đi vượt biên ngày nào giờ đã hấp thụ văn hóa Mỹ, không còn răm rắp nghe lời ông như ngày xưa. Mấy đứa cháu nội, ngoại thì chỉ toàn nói tiếng Mỹ, và dĩ nhiên chúng cũng không muốn nghe lời ông. Vợ ông cũng vậy. Bà dường như không còn thói nín nhịn như ngày xưa. Bà sẵn sàng “đốp chát” lại với ông ngay khi có thể.
Ngột ngạt và tù túng, ông Nghĩa “chỉ muốn quay trở lại ngay Việt Nam,” nhưng các con ông không cho, vì “tụi nó nói dù gì thì đời sống ở Mỹ cũng tốt hơn vạn lần ở Việt Nam.”
Thế là việc trở về Việt Nam trở thành niềm “khao khát” đối với người đàn ông có tuổi đang sống ở thành phố Orange này. Khi dành dụm đủ tiền con cái cho, ông Nghĩa mua ngay vé máy bay về Sài Gòn.
Về đó lúc đầu thì cũng là đi tìm gặp những ông bạn già ngày trước để hàn huyên, để nhậu nhẹt cho vui thôi,” ông Nghĩa nói lý do về nước của mình. Theo ông, dù từng nghĩ “sống ở Mỹ như địa ngục,” nhưng khi về nhìn lại những người bạn cùng lứa ngày trước, ông Nghĩa lại thấy mình “ngon lành hơn.”
Tương tự như vậy là trường hợp của ông Hai Lý, một cư dân ở Midway City, người cũng đã bước qua tuổi 70, “cổ lai hy.”
Theo lời ông Hai Lý, ông sang Mỹ từ năm 1975, “Việt cộng tấn công vô là tôi đi ngay.” Sau thời gian đi làm “assembly” ở hãng, hiện tại ông Hai đã về hưu, “ly dị lâu rồi,” và “mấy đứa con cũng đều có gia đình ở riêng.”
Ông Hai không có nhà, cũng không có xe vì ông cho rằng “già rồi đi xe bus cho tiện.” Ông không nói lương hưu của ông bao nhiêu, chỉ nói mỗi tháng ông trả $300 tiền thuê phòng, và phải ra ngoài ăn uống một cách tiết kiệm vì “chủ nhà không cho nấu ăn.”
“Ở đây, người ta nhìn tình cảnh của tôi chẳng khác gì thằng cơ hàn,” ông Hai tự đưa lời nhận xét. “Nhưng khi về Việt Nam thì tôi khác à!”

Ðến 'anh' Việt kiều được chìu chuộng chăm sóc

“Ở đây, người ta nhìn một ông già 70 như tôi, không có xe, không có nhà chẳng khác nào như một thằng cơ hàn. Trong khi mỗi lần về Việt Nam , tôi thấy mình như ông vua, có thể hét ra lửa được, vì con gái Việt Nam rẻ như bèo, mình có tiền muốn làm gì mà chẳng được.”
Ðó là lý do mà ông Hai Lý cứ chắt mót số lương hưu, khi thấy “vừa đủ” là bay ngay về Việt Nam để được làm người “hét ra lửa.”
Người đàn ông đậm người, tóc được nhuộm đen không thể nhìn ra một sợi trắng, nói rất tự nhiên, “Về Việt Nam , tôi ít khi ở Sài Gòn, ở đó cái gì cũng mắc mỏ. Tôi còn bạn bè ở Vĩnh Long. Mỗi lần tôi về là họ dẫn tôi đi chỗ này chỗ nọ.”
“Chỗ này chỗ nọ” của ông Hai là những quán cà phê, những tiệm massage cũng “sạch sẽ tươm tất” nhưng giá cả không quá đắt. Ông Hai nói không cần che giấu, “Mình bỏ ra có ba bốn trăm ngàn, chưa đến hai chục đô, mà có người gội đầu, người ngồi cắt móng tay, móng chân, người mát-xa mặt thì còn muốn gì nữa. Ðàn ông mà.
Ông Hai cũng nhắc đến những nơi ông thích lui tới như “cà phê vườn,” “cà phê võng” nhưng khi được hỏi ở đó có gì khiến ông thích thì ông chỉ cười không trả lời, rồi bắt qua chuyện khác.
Không nhận xét “con gái Việt Nam rẻ như bèo” như kiểu ông Hai Lý, nhưng cảm giác được “chìu chuộng chăm sóc ngọt ngào” cũng là điều ông Nghĩa Nguyễn tìm thấy trong những lần về Việt Nam sau đó.
Ông Nghĩa kể mấy lần sau về Việt Nam, nhiều bạn già, bạn nhậu của ông người thì chết, người thì bệnh bởi những chứng tiểu đường, cao máu. Buồn, thiếu người nói chuyện, ông Nghĩa “đi cắt tóc thanh nữ cho quên sầu.”
Học được cách cho tiền “tip” từ Mỹ, ông Nghĩa “bo” cho cô thợ cắt tóc một ít tiền. Thế là “cô thợ chỉ hơn 20 tuổi kêu tôi bằng anh ngọt xớt.” Ông Nghĩa kể lại mà gương mặt vẫn còn giữ nguyên nét hồ hởi, “Tôi nghe khoái quá! Bởi lâu lắm rồi người ta chỉ kêu tôi bằng chú, bằng bác, vợ tôi thì khi nói chuyện cũng kêu tôi bằng ông. Giờ nghe có người kêu mình bằng ‘anh’ thấy lạ tai và thấy mình trẻ ra.”
Cứ vậy mà ông Nghĩa mê trò “đi cắt tóc, gội đầu, mát-xa.”
Rồi ông cũng chợt nhận ra là ông chưa từng bao giờ hưởng được sự dịu ngọt, chìu chuộng như vậy từ vợ con, họ chỉ từng “sợ” ông khi ông còn là trụ cột trong nhà. Ông cảm thấy hình như đã đến lúc ông cần “phải lo cho bản thân ông nhiều hơn.”
Ông Nghĩa bắt đầu có thú vui mỗi khi về Việt Nam là đi “khám phá” những “tiệm cắt tóc gội đầu máy lạnh” và đi nhậu ngoài quán chứ không còn nhậu với mấy ông bạn già ở nhà như những lần trước.
Ông lại vui hơn nữa là mấy cô gái nơi đó đều gọi ông bằng “anh.” Mà tính ông lại “thương người” nên cứ nghe cô nào ngồi thủ thỉ chuyện gia cảnh khó khăn phải đi làm thế này là ông lại cho tiền, “mỗi lần 50 đô hay có khi cho 100 đô.”
Khi được hỏi, “Ông không nghĩ là những cô gái đó ngọt ngào với ông vì chỉ muốn tiền của ông thôi sao?” ông Nghĩa tỉnh bơ trả lời, “Sao lại không biết! Nhưng tôi cảm thấy tôi happy trong những khoảng thời gian đó thì tôi làm thôi.”

Chỉ muốn ‘ăn bánh trả tiền’ hay thực sự muốn chuyện trăm năm?

“Ăn bánh trả tiền” là điều ông Nguyên Phạm, gần 60 tuổi, chủ một business nhỏ ở Santa Ana, chọn.
Ông Nguyên xác định rất rõ, “Cuộc sống vợ chồng tôi ở đây không hạnh phúc. Nhưng cũng không ly dị vì không muốn giải quyết chuyện phân chia tài sản. Mỗi năm tôi về Việt Nam một đôi lần là để đi chơi, hưởng thụ.”
Theo lời ông Nguyên kể, mỗi lần về Việt Nam, qua lời giới thiệu của “người quen,” ông sẽ “cặp kè” với một cô. Trung bình ông sẽ trả cho cô gái $1,000 cho cuộc sống “già nhân ngãi, non vợ chồng” trong vòng một tháng. Còn những khoảng ăn ở, đi chơi nơi này nơi khác, ông Nguyên cũng là người chi trả hết.
Người đàn ông này giải thích thêm, “Mỗi lần về Việt Nam trong thời gian ngắn ngủi như vậy chỉ thấy mình được chìu chuộng, nâng niu. Không có chuyện cãi lộn, gấu ó. Không bị căng thẳng đầu óc vì công việc.
Cũng có lúc gặp mấy cô dễ thương, khi qua đây rồi cũng có gọi điện về nói chuyện chơi. Nhưng khi thấy cô nào bắt đầu than ‘má em bệnh, ba em đau, xe em mất’ là tôi ‘bái bai,’ cắt liên lạc luôn để khỏi phiền.” Ông Nguyên nói.
Ông Hai Lý cũng xác định chuyện muốn “hét ra lửa,” vung tay cho tiền những cô gái quê để được chăm sóc, nâng niu cũng chấm dứt khi rời khỏi Việt Nam, bởi ông không muốn có những ràng buộc, “qua đây thân tôi lo còn chưa xong nữa mà đèo bòng thêm chi.”
Riêng ông Nghĩa Nguyễn thì có hơi khác. Không chỉ có cảm giác là mình “thật sự trẻ ra” khi “bước vô quán nào người ta cũng kêu tôi bằng anh,” mà ông còn muốn nếu có ai đó chịu đứng ra bảo trợ tài chánh thì ông sẵn sàng ly dị vợ để cưới ngay một cô từ Việt Nam qua để suốt ngày nghe tiếng “anh” cho thỏa cái lỗ tai.
Ước mơ của ông Nghĩa đang lưng chừng thực hiện được “phíp-ty pờ xen” (50%) vì các con ông chia hai phe. Một phe ủng hộ, “ba già rồi hãy làm điều gì cho ba vui thì làm.” Nhưng phân nửa kia thì cật lực phản đối, “không chịu được cảnh nhìn ba tung tăng đi công viên với một đứa đáng tuổi cháu ngoại.”
Vợ ông Nghĩa đương nhiên biết chuyện “cặp bồ” của ông ở Việt Nam, nhưng bà nói, “Già từng tuổi này rồi, tui chẳng có gì để ghen tuông, mà tui chỉ thấy phát gớm!

Tống Văn Công - Sex trong xã hội đương đại và thuần phong mỹ tục Việt


Tống Văn Công
Viết tặng nhạc sĩ Dương Thụ

Sex bị cấm kỵ từ bao giờ?

Sex trong xã hội đương đại và thuần phong mỹ tục Việt”. Đó là câu nhạc sĩ Dương Thụ nhắn qua điện thoại mời dự cuộc trao đổi ý kiến lý thú ở Cà phê Thứ bảy do anh chủ trì. Rất tiếc, tôi không đến được. Sau đó, chỉ có một tờ báo đưa tin tương đối rõ và có tựa đề là “Khuynh hướng “cởi” và “mở” trong xã hội Việt Nam đương đại với thuần phong mỹ tục Việt”. Tối 24 tháng 7 năm 2011 bản tin thời sự của HTV9 có đưa những ý kiến trao đổi nói trên, nhưng chỉ chọn phát biểu của 3 người (người chủ trì, một cựu quan chức và một đạo diễn), các ý kiến rất quan trọng không được nhắc đến. Do đó, tôi muốn góp vài suy nghĩ của mình.
Ngày nay, chúng ta tỏ ra kiêng kỵ đối với sex hơn bất cứ thời nào trong lich sử! Tôi muốn mọi người nhìn lại xem ông bà ta từ xưa đã đối xử với sex như thế nào. (Sex từ tiếng Anh đã được Việt hóa, có nghĩa: Giới tính trai, gái; vấn đề sinh lý, dục tính; sự giao cấu.)

Trong kho tàng truyện tiếu lâm từ ngàn xưa (hiện nay vẫn tiếp tục có thêm nhiều truyện tiếu lâm mới), có lẽ đủ cho thấy người Việt hiểu sex, bàn về sex không khác và không kém bất cứ dân tộc nào. Quan lại của các triều đình phong kiến, tức là những người từng dồi mài kinh sử theo nho giáo, cũng không hề kiêng kỵ mà lại còn rất mê sex. Sách “Hoa viên kỳ ngộ tập” một tập truyện sex (ra đời 1760-1761) do các quan lại Việt Nam đi sứ sang Tàu mang về chuyền tay nhau đọc. Người ta phát hiện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có vài truyện phỏng tác từ sách này... Xin trích mấy câu trong bài ký Cuộc gặp gỡ ở Tây viên: “Hai nàng thẹn thùng nói: “Chúng em việc xuân chưa am hiểu, lòng thơm đang còn khiếp sợ, chỉ e tình hoa rung rẩy, tơ liễu điên cuồng, ngượng hồng oán lục làm giảm mất một đoạn phong lưu”. Thư sinh đáp: “Cứ tạm thử, không dám làm hai nàng phải khổ vì mây mưa đâu”. Nói xong, sinh cắt tàn bấc cho đèn sáng lên, rồi cùng nằm, ghé sát vàng, tựa kề ngọc, vừa nghiêng bên gối, đã xô vụn sóng ba đào”.
Thi hào Nguyễn Du là bậc thày miêu tả những cảnh sex. Đây là cảnh khỏa thân của nàng Kiêù lúc tắm:

“Rõ màu trong ngọc trắng ngà,
“Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”
Cảnh Kiều bị thất thân bởi Mã Giám Sinh:
“Tiếc thay một đóa trà my,
“Con ong đã tỏ đường đi lối về!
“ Một cơn mưa gió nặng nề,
“Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương.
“Đêm xuân một giấc mơ màng .
“Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ”
Đây là lời Tú Bà dạy Kiều cách phục vụ khách làng chơi:
“Này con thuộc lấy nằm lòng .
“Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.
“Chơi cho liễu chán hoa chê,
“Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời”
“Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề”, đã có trong Tố Nữ Kinh, tương truyền là ở thời Hoàng Đế của Trung Quốc (hơn 2000 năm trước công nguyên). “Vành ngoài bảy chữ” là kích dục bên ngoài. “Vành trong tám nghề” là cách làm tình. Ai đã đọc Tố Nữ Kinh thì qua câu này đã hình dung ra “nghề chơi cũng lắm công phu”.
Chúng ta không thể không nhắc đến bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương mà hầu hết tác phẩm đều có nghĩa ngầm (cách nói của Xuân Diệu) tả sex.
“Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm;
“Một lạch đào nguyên suối chửa thông.
“Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt”…

“Trai du gối hạc khom khom cật,
“Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng”…

Trong Hoàng Lê nhất thống chí, có đoạn, khi được gợi ý việc xin cưới công chúa Ngọc Hân, anh hùng Nguyễn Huệ đã trả lời rất sex: Gái miền Nam thì ta đã được hưởng, nay nếu được biết gái Bắc thì hay quá!
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 văn hóa Pháp truyền vào nước ta, trong đó có sex. Có lẽ nghệ thuật nhiếp ảnh khỏa thân du nhập vào nước ta sớm nhất, trước cả khoa kiến trúc. Anh lính Pierre Dieulefils đã chụp hằng trăm ảnh khỏa thân của phụ nữ Việt Nam ở mọi tư thế. Năm 1886, ông đã tổ chức triển lãm số ảnh khỏa thân đó tại Hà Nội. Điều này cho thấy từ ngày ấy Hà Nội đã có những người Pháp và cả người Việt biết thưởng thức loại hình nghệ thuật rất mới mẻ này. Với số ảnh đó, Pierre Dieulefils đã đoạt nhiều giải thưởng ảnh nghệ thuật của Pháp, Bỉ, để rồi sau khi giải ngũ ông tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh tại Hà Nội. Đến thập kỷ 30, 40, sex đã có mặt ở hầu hết các bộ môn văn học nghệ thuật của nước ta. Tranh khỏa thân của Trần Văn Cẩn, Lê Phổ…(cách đây đã lâu có tin, tranh khỏa thân của các cụ có giá bán hơn 3000 USD một bức); tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng; thơ tình Xuân Diệu…

Sau cách mạng Tháng Tám 1945, sex vẫn không bị cấm kỵ trong văn học nghệ thuật; nhưng bắt đầu cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp thì sex đồng nghĩa với những gì hũ bại, thậm chí rất phản động. Ngay những tác phẩm miêu tả tình yêu lành mạnh như Màu tím hoa sim của Hữu Loan cũng bị lên án là sa đọa! Các văn nghệ sĩ tham gia cách mạng đều tuyên bố từ bỏ những đứa con tinh thần của mình sáng tác trước 1945 có hơi hướng lãng mạn chứ chưa cần có sex. Ở vùng giải phóng Nam Bộ thời chống Pháp ca vọng cổ cũng bị cấm, vi phạm sẽ bị tù! Để thay thế loại nghệ thuật này, nhân dân vùng giải phóng Bạc Liêu, Cà Mau (quê hương của Cao Văn Lầu, tác giả bài Vọng cổ hoài lang nổi tiếng), đã sáng tạo ra hình thức Nói thơ Bạc Liêu rất “ướt át” để bù lại. Trong khi đó, ở các thành thị và sau này ở miền Nam, sex được các ngành nghệ thuật khai thác và có không ít tác phẩm có giá trị..

“Cởi ra, rồi lại buộc vào...!”

Từ Đại hội 6 đôỉ mới, sex bắt đầu sống lại với các văn sĩ trẻ như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài… Các tác giả này được dư luận trong và ngoài nước đánh giá cao. Nhưng không lâu sau đã bị phê phán gay gắt. Nói chung văn nghệ sĩ Việt Nam phải tự răn mình trước khi muốn đưa sex vào tác phẩm vì rất dễ bị lâm nạn! Nhiều tác giả nước ngoài nổi tiếng, thậm chí đoạt giải Nobel văn chương vào Việt Nam cũng bị cắt xẻo. Đầu thập kỷ 90, Thành phố Hồ Chí Minh đã thu hồi Tình yêu thời thổ tả của Gabrien Gacxia Macket với lý do “truyện đầy cảnh dâm dục”! Có lẽ rút bài học này mà 10 năm sau, tháng 3-2000, khi xuất bản quyển Lụa của nhà văn Ý Alessandro Baricco từ bản dịch của Pháp, nhà xuất bản Trẻ đã viết trong Lời giới thiệu sách: “Gần cuối câu chuyện có một đoạn rất thường gặp trong tiểu thuyết hoặc phim ảnh phương Tây, nhưng xa lạ với truyền thống văn hóa phương Đông. Đó là những đoạn trong bảy trang thư tình của Hélène, vợ của Hervé Joncour nhờ người viết…Vì lý do thuần phong mỹ tục, Nhà xuất bản Trẻ đã lược bỏ bớt những chỗ quá đáng trong bảy trang thư này”. Đúng ra Nhà xuất bản Trẻ chỉ có thể viết là “không phù hợp với các nhà quản lý văn hóa Việt Nam”, chứ không thể nói “xa lạ với truyền thống văn hóa phương Đông”, bởi vì Nhật Bản từ lâu lắm đã từ bỏ thứ truyền thống phi nhân bản đó, tiếp theo là Hàn Quốc, Đài Loan, và đến nay cả Trung Quốc nữa cũng không hề có sự kiêng kỵ đối với sex như chúng ta!

Năm 1995, có sự kiện đáng nhớ là phim Xích Lô của Trần Anh Hùng được giải Sư tử Vàng ở Liên hoan phim Venise lần thứ 52 tại Italia, nhưng Việt Nam cấm chiếu phim này và cấm tác giả về nước với lý do “đầy những hình ảnh bạo lực, nhiều cảnh sex, hiện thực trong phim không đúng thực tế Việt Nam”. Từ đó, cho rằng đạo diễn làm phim này nhằm chống Việt Nam. Hãng phim Giải phóng phải làm bản kiểm điểm vì sao lại hợp tác với Trần Anh Hùng làm phim này. Dù rằng suốt quá trình làm phim, có nhiều cán bộ A25 được giao bám sát, và yêu cầu Trần Anh Hùng phải sửa chữa liên tục! Trong một lần trả lời phỏng vấn, Trần Anh Hùng cho rằng, những cảnh bạo lực của phim phải đạt mục đích là làm cho người xem căm ghét bạo lực và những cảnh sex là cần thiết cho nội dung. Ông Thái Kế Toại người được A25 giao trách nhiêm theo dõi quá trình làm phim này đã đặt câu hỏi: “Chẳng lẽ vì để chống Việt Nam mà ban giám khảo LHP Venise hạ thấp mình để trao giải cho bộ phim mà người Việt Nam cho là thấp kém? Nếu có lý trí tỉnh táo, có thiện chí thì giải đáp câu hỏi này không khó”. Rất tiếc 16 năm đã qua không có cơ quan có trách nhiệm nào giải đáp câu hỏi rất cấp thiết đó!
Mười lăm năm sau, phim Bi, đừng sợ của Phan Đăng Di vượt qua 4 ứng viên nặng ký của Nga, Pháp, Australia, Rumani, đoạt hai giải thưởng lớn Phim đầu tay xuất sắc, và Quay phim xuất sắc ở LHP Stockholm Thụy Điển. May mắn hơn Xích Lô, phim Bi, đừng sợ được chiếu trong nước và được vài nhà bình luận viết bài khen ngợi, nhưng chỉ vài ngày sau, đã bị một trận bão phê bình vùi dập tơi bời trên các báo lớn, chủ yếu vì phạm tội sex, trái thuần phong mỹ tục Việt Nam! Phan Đăng Di là đạo diễn được đào tạo bài bản. Ông được những nhà lý luận của các cường quốc điện ảnh như Mỹ, Pháp, Thụy Điển, Hàn Quốc… đánh giá cao, thế mà những người lớn tiếng chỉ trích ông chỉ cần “món võ” thô sơ là “trái thuần phong mỹ tục”!

Từ đầu thập niên 90, cho đến gần đây, nhiều họa sĩ và nghệ sĩ nhiếp ảnh xin triển lãm tranh và ảnh khỏa thân đều không được cho phép. Ban đầu, các nhà quản lý tìm cớ loanh quanh như địa điểm không thích hợp, thời điểm chưa thuận (Sở văn hóa Hà Nội đối với nhà nhiếp ảnh Thái Phiên), sau đó thì nói thẳng là trái thuần phong mỹ tục. Thái Phiên cho rằng, đó là cách viết lịch sự ở văn bản, còn nói với nhau người ta lên án là “ảnh khiêu dâm”! Bức ảnh Đồi trinh nữ của Thái Phiên đã được giải đặc biệt ở cuộc thi ảnh nghệ thuật Hàn Quốc, nhưng Sở văn hóa thông tin Hà Nội vẫn phán là “không phù hợp”. Tranh khỏa thân của họa sĩ Nguyễn Kim Đính được Hội đồng nghệ thuật Thừa Thiên-Huế thẩm định là “đạt tiêu chuẩn nghệ thuật”; nhưng Sở văn hóa thông tin (tức là những người có quyền nhưng không có chuyên môn) vẫn kết luận “không phù hợp thuần phong mỹ tục”. Có thể xem nội dung công văn của Phó giám đốc Sở văn hóa thông tin thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Tuất Việt gửi cho nữ nhiếp ảnh gia Nguyễn Kim Hoàng là lập luận chung của tất cả các nhà quản lý văn hóa Việt Nam hiện nay:

Nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam là nét đẹp kín đáo. Các bức ảnh đều chụp cận cảnh và phô diễn những đường nét nhạy cảm nhất của người phụ nữ, nên việc triển lãm này đến công chúng là không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam”.

Nhiếp ảnh gia Nguyễn Kim Hoàng nói: “Khi đọc công văn của Sở tôi cảm thấy vô cùng tổn thương!”
Năm 2005, có một sự kiện đáng nhớ là việc phát hành tập truyện Bóng Đè của nhà văn nữ Đỗ Hoàng Diệu. Tập truyện được các nhà phê bình, nhà văn hóa hàng đầu của đất nước hết lời ca ngợi. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên viết: “Phụ nữ trong quan hệ với dục tính, nhưng quan trọng hơn, phụ nữ và dục tính trong quan hệ với xã hội và lịch sử.” Nhà văn Nguyên Ngọc viết: “Và cũng có lẽ một trong những dấu hiệu đáng tin cậy để nhận ra một tài năng văn học là đọc họ, ta cảm thấy cứ như bằng trực cảm, bằng một thứ ăngten riêng, dường như họ nhận ra được và truyền đến chúng ta những nghiền ngẫm sâu thẳm về con người, xã hội, về đất nước, thậm chí về số phận dân tộc mà chính họ bằng luận lý cũng không nói ra cho rõ được.” Nhà văn Châu Diên: “Đây là cuốn sách mà tôi kính trọng”.Độc giả Hoàng Hạc từ Canada cho rằng “Ở Việt nam có thể cho là mới, nhưng so sánh không đâu xa, ngay với Trung Quốc thôi cũng không có gì là mới cả!”

Ngay lập tức trên tờ báo Sai Gòn Giải Phóng của đảng bộ TP HCM có một bài viết phê phán rằng, đây là một quyển sách dung tục, lạc lỏng, bác bỏ ý kiến ở trên của Nguyên Ngọc một cách nặng nề: “Không biết sâu xa ý tứ ấy là gì, nhưng một người bình thường đọc quyển sách này đều khó lòng nhận ra điều cao cả ấy, nếu không muốn nói là sự báng bổ đến khó hiểu trong tâm thức nhà văn này”. Một nhà báo không lấy gì làm nổi tiếng, lại lấy ý kiến của “một người đọc bình thường” (có lẽ tác giả muốn nói là ý kiến của công nông chăng), nhưng đã đủ sức khóa miệng các danh sĩ bậc nhất của đất nước!

Năm 2010 ầm ỹ với Sợi Xích của Lê Kiều Như. Lẽ ra các nhà phê bình chỉ rõ: đây không phải là một tác phẩm văn học. Sự yếu kém của Sợi Xích như bố cục lỏng lẻo, tâm trạng nhân vật nhạt nhẽo, tả sex vụng về, tự nhiên chủ nghĩa… Nhưng tất cả mọi chỉ trích dồn dập nhằm vào sex!

Có ba điều cần “cởi” và “mở”

1. Sex làm cho con người khác con vật

Ngôn ngữ học cho rằng, con người khác con vật là biết tư duy qua ngôn ngữ. Tôi muốn nói thêm , con người còn khác con vật ở sex. Ông Osho một triết gia Ấn Độ cho rằng từ tình dục đến tình yêu cũng giống như từ than đá đến kim cương vậy. Không có tình dục sẽ không có tình yêu, cũng như không có than đá thì không có kim cương. Hiểu theo Osho thì con người có trình độ văn hóa cao thì tình dục và tình yêu hòa nhau làm một, như viên kim cương không còn dấu vết nào của than đá.

Tôi nghĩ, sẽ rất sai lầm nếu cho rằng những quyển sách Tố Nữ Kinh của Trung Quốc, hoặc Kama Sutra của Ấn Độ là sách dạy dâm dục. Đúng ra phải hiểu đó là những quyển sách sớm nhất của nhân loại dạy cho con người biết nâng sinh hoạt tình dục thành một nghệ thuật, khoái lạc hơn, bảo vệ sức khỏe tốt hơn, hoàn toàn khác với con vật. Hãy nghe Tố Nữ góp ý cho Hoàng Đế: “Hoàng Đế sớm xuất tinh, suy nhược là vì ngài không biết cách sinh hoạt phòng sự một cách bình thường. Hậu quả là không cảm thấy khoái lạc mà lại mệt mỏi. Tất cả chỉ vì Hoàng Đế không hiểu thủy tính và hỏa tính, không hiểu hệ quả khi không biết điều hòa âm dương”. Sau khi Nho giáo bị lợi dụng trở thành công cụ bảo vệ vương quyền thì Tố Nữ Kinh không được phổ biến cho trăm họ nữa mà biến thành của riêng vua chúa, áp dụng nó với mục đích trụy lạc trong cung cấm.
Ở nước ta một số trống đồng đã khai quật được có niên đại suýt soát thời Hoàng Đế, miêu tả những cảnh giao hợp, chứng tỏ sinh hoạt tình dục từ xa xưa, không hề bị ông bà chúng ta coi là điều xấu xa, kiêng kỵ mà đã đặt nó ở bình diện văn hóa. Như vậy cũng tức là từ xa xưa, thuần phong mỹ tục Việt Nam đã gồm có cả sex!
Nếu cứ giữ tình trạng như hiện nay, thì chúng ta sẽ là quốc gia cá biệt đối với sex. Bởi vì Trung Quốc xứ sở của nho giáo lại cùng thể chế như ta, vậy mà từ hơn 10 năm trước đã xuất hiện dòng văn học linglei bởi những nữ tác giả rất trẻ. Ban đầu các nhà lý luận định kiến gọi đó là loại “lưu manh”, nhưng chỉ ít lâu sau đã định nghĩa lại là “sự năng động”. Ở các quốc gia Hồi giáo, sex là điều rất cấm kỵ có thể bị coi là phạm tội chết. Vậy mà nữ tác giả Nedjma người A-rập theo đạo Hồi đã có tác phẩm Trái Hạnh Đào được gọi là “sự thức tỉnh về tình yêu và tình dục”. Nhật Bản quốc gia “đồng văn” phương Đông với chúng ta, sex trong văn học nghệ thuật từ lâu đã là điều bình thường. Haruki Murakami tác giả Rừng Na Uy nổi tiếng thế giới cho rằng “Tình yêu luôn gắn với tình dục”. Ông viết về tình dục, nhưng văn phong không hề gợi dục tính: “Tình dục là cánh cửa mở vào tâm linh”. Chính vì Murakami coi sex là của con người cho nên ông đươc các nhà bình luận nhiều nước cho rằng: “Tác phẩm của Murakami có quy mô hành tinh, nó đụng chạm đến những vấn đề của toàn thể loài người” (Philipp Vase).

Trong cuộc trao đổi Cà phê Thứ Bảy, dịch giả Trần Đỉnh, ngoài 80 xuân, cho rằng “chuyện đó” rất “người”, nên nhìn nó ở khía cạnh nhân bản. Ông cho rằng không thể dùng chuẩn mực của những người nhuộm răng đen để phê phán người răng trắng. Nhà nghiên cứu Lữ Phương đã phát triển ý này: “Càng không nên biến chúng thành những quy phạm để chỉ đạo văn học nghệ thuật”.

2. Nếu chỉ bản năng thì chưa thoát khỏi con vật

Tiến sĩ Trần Hữu Quang cho rằng đằng sau hiện tương sex tràn lan trên báo “lá cải” là sự khủng hoảng của xã hội đang có dấu hiệu của sự đổ vỡ. Từ hiện tượng sex, ông đã nhìn ra bình diện rộng. Đúng là xã hội chúng ta đang đứng trước những nghịch lý chưa giải tỏa được, kéo theo sự khủng hoảng văn hóa, đạo đức, trong đó có sex. Người ta chưa phân biệt sex được thể hiên như thế nào mới đạt phẩm chất của con người, còn nếu như miêu tả thô tục, bản năng thì gần với con vật. Ông Lữ Phương nhấn mạnh cái gọi là “cởi” và “mở” hiện nay đang nghiêng quá nhiều về phần đua đòi, lai căng, thô tục, xem thường phụ nữ… tràn lan trên cả các mạng chính thống của nhà nước, rất trắng trợn, hạ cấp, không phân biệt cho từng lứa tuổi. Ông cho rằng:
“Vấn đề quan trọng này không được pháp luật quy định một cách phân minh. Nếu không có giải pháp đúng đắn thì có thể chúng ta từ mong muốn thoát ra khỏi tình thế bất thường cũ lại trượt dài vào tình trạng bất thường mới: Xã hội chúng ta vẫn chưa có được một trạng thái cân bằng mà các xã hội phát triển khác đang có”
Có lẽ, vấn đề này nên xem xét, đánh giá cả hai phía. Các văn nghệ sĩ, nhà báo phải miêu tả sex ở tầm văn hóa của con người, học tập, nâng cao nghệ thuật từ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và tiếp thu tinh hoa của các bậc thày nước ngoài. Nếu miêu tả sex một cách bản năng thì chưa đạt tính người mà hãy còn gần với con vật. Mặt khác, người tiếp nhận nghe nhìn, thưởng thức văn học nghệ thuật cũng phải được nâng sự hiểu biết lên, để phân biệt sự thanh cao với điều ô trọc. Họa sĩ tài danh người Tây Ban Nha Francisco José Goya (1746-1826) có câu nói được truyền tụng: “Sự trần truồng là tác phẩm tuyệt mỹ của tạo hóa ban cho con người. Ý nghĩ tà dâm nãy sinh trước sự trần truồng là sự bộc lộ bản chất của những kẻ gian manh!”. Nhưng trước khi mạ lỵ như thế, cần phải có sự giáo dục đã!

3. Để có trạng thái của một xã hội bình thường

Nhà nghiên cứu Lữ Phương cho rằng việc quan tâm đến sex có mặt tích cực là: Phản ánh sự đòi hỏi chuyển biến từ một xã hội không bình thường sang một xã hội bình thường. Ý kiến của ông.rất có lý. Xã hội ta nhiều năm qua đã đem cái không bình thường làm cái bình thường: chấp nhận phong bì, lót tay; bầu người thoái hóa thành người “4 tốt”; khen tặng những tập thể đang che giấu tiêu cực lại là “trong sạch vững mạnh”... Trái lại, biến cái bình thường thành cái không bình thường như: Dám tố cáo tham nhũng; nhường chỗ ngồi cho người già yếu, phụ nữ; dừng xe trước đèn đỏ… Trong những điều bất bình thường đó có sex, là chuyện bình thường từ ngàn xưa bỗng dưng trở thành một thứ bẩn thỉu, phải kiêng kỵ.

Trong cuộc trao đổi ở Cà phê Thứ Bảy, nguyên phó giám đốc Sở văn hóa thông tin TP HCM, bà Thế Thanh cho rằng “Cần có những đường lối phù hợp để mọi người có thể chia sẻ sự sáng tạo của mình trong báo chí, điện ảnh hay các lĩnh vực nghệ thuật xã hội khác”. Nói vậy là các nhà quản lý văn hóa hiện nay đang thực hiện một “đường lối” nào đó không còn thích hợp? Giở văn kiện Đại Hội 11 ở phần Phát triển văn hóa: “Huy động các nguồn lực cho phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội.” Nội dung này hầu như không thay đổi từ các Đại Hội Đảng trước kia. Vậy có lẽ phải hiểu thế nào là “kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp” và thế nào là “tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Việc đó chủ yếu không phải của các nhà chính trị và các nhà quản lý văn hóa mà là của các nhà nghiên cứu lý luận văn học nghệ thuật từng chuyên ngành, đồng thời phải được sự tranh biện công khai và cuối cùng được kết luận bởi cơ quan có thẩm quyền ở từng chuyên ngành.

Các văn nghệ sĩ phải được bảo đảm tự do sáng tác. Các nhà quản lý có trách nhiệm bảo đảm cho các loại tác phẩm đến đúng với đối tượng, ví dụ sách, ảnh, phim… loại nào dành cho lứa tuổi nào. Việc phê bình đánh giá tác phẩm nên được tiến hành công khai, tôn trọng sự phản biện và các quan điểm chưa được số đông công nhận cũng được bảo lưu và tiếp tục tranh biện. Tránh sự áp đặt một quan điềm không biết từ đâu mà ai cũng kiêng dè. Ví dụ mới đây, có nhà báo viết dưới tiêu đề Dấn thân vào cảnh nóng gồm ba bài liên tục: Cảnh “nóng” và nước mắt; Đi qua dư luận và Giá trị không ở cảnh sex. Chỉ cần đọc ba tựa đề cũng thấy được người viết không coi sex có sự cần thiết cho bất cứ tác phẩm nào mà chỉ là một loại để câu khách! Lẽ ra người viết loạt bài này phải chỉ ra cụ thể, những bộ phim Việt Nam nào (người viết cho rằng đến 80% số phim) đã đưa sex không phải vì cần thiết cho nội dung mà chỉ nhằm câu khách.Vậy mà, tất cả văn nghệ sĩ và các nhà lý luận phê bình Việt Nam đều im tiếng. Đó là một tình trạng rất, rất không bình thường!
Ngày 27 tháng 7 năm 2011
TVC
Tác giả gởi cho viet-studies ngày 25-9-11

Lời mẹ dặn


Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.

Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
- Con ơi -
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.

- Mẹ ơi, chân thật là gì ?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
- Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.

Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.

Từ ấy người lớn hỏi tôi :
- Bé ơi, bé yêu ai nhất ?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời :
- Bé yêu những người chân thật.

Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không ! Những lời dặn đó
Như trang giấy trắng tuyệt vời,
In lên vết son đỏ chói.

Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Những lời mẹ dặn thủa lên năm
Vẫn nguyên vẹn mầu son chói đỏ.

Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.

Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.

Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.

Phùng Quán

Tập thơ "Thơ với tuổi thơ"

Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước


“Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý”
K.Marx
 
Tham luận của Trần Mạnh Hảo trong đại hội Hội Nhà Văn Việt Nam lần thứ XIII
(Soạn theo thư “mời viết tham luận” của nhà văn Hữu Thỉnh- chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam – nhờ nhà thơ Trần Đăng Khoa đọc dùm – cám ơn !)

Kính thưa quý đồng nghiệp cầm bút
Thưa quý vị quan khách và quý vị lãnh đạo,
Thói thường, con người sợ món gì nhất? Sợ ma quỷ ư? Không! Sợ vợ ư? Không! Sợ công an ư? Không! Sợ kẻ cầm quyền ư? Không! Sợ chết ư? Không!

Theo chúng tôi, con người trên mặt đất này sợ nhất sự thật! Vì vậy, ngạn ngữ Việt Nam từng nói: “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Người Trung Hoa từ thượng cổ đã nói : “Trung ngôn nghịch nhĩ”. Người Ba Tư cổ khuyên: “Nếu nói ra sự thật, anh sẽ chết”. Người Ai Cập xưa cảnh cáo: “Khi sự thật bị bỏ quên quá lâu, một hôm nó thức dậy thành ngày tận thế”. Ngạn ngữ Tây Tạng tiền Phật giáo khuyên: “Mày chỉ được phép nói ra sự thật, nếu mày làm vua”. Thổ dân Úc bảo: “Ai nhìn thẳng vào sự thật sẽ bị mù mắt”. Lịch sử nhân loại đã ghi nhận hàng triệu con người từng dám cả gan nói lên sự thật mà bị mất mạng, bị tù tội hay bị quản thúc tại gia.
Đã có bao nhiêu lý thuyết chính trị thề bồi giải phóng con người, bao nhiêu cuộc lật đổ, cuộc cách mạng tuyên thệ giải phóng con người, giúp con người hoàn toàn tự do, sau khi đã giết hàng triệu triệu sinh mạng. Rút cuộc, con người hình như vẫn chưa được hoàn toàn giải phóng, chưa hoàn toàn được tự do, con người vẫn còn sợ hãi vì bị sự dối trá thống trị? Một số đất nước, một số dân tộc trên hành tinh vẫn còn bị nhốt trong nhà ngục có tên là dối trá. Cần phải làm một cuộc cách mạng của sự thật mới mong giải thoát cho nhân dân khỏi ngục tù kia.

Chìa khóa cuối cùng giúp con người được giải phóng, được hoàn toàn tự do, chính là sự thật, một sự thật không còn bị giấu như loài mèo giấu của quý. Karl  Marx  đã tôn vinh sự thật lên tột cùng của nhận thức luận và phương pháp luận: “ Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” : không có sự thật đi kèm, mọi kết luận, mọi lý thuyết, mọi khế ước, mọi hội kín, mọi cuộc cách mạng đều chỉ là ngụy lý, ngụy tạo, là lừa bịp. Cố thổng thống Ba Lan Lech Kaczynxki ( 1949-2010) người vừa bị tử nạn trong vụ rơi máy bay trên đường bay đến rừng Katyń  tham dự lễ kỷ niệm 22.440 người con ưu tú của dân tộc Ba Lan bị Hồng quân Liên Xô chôn sống hồi đầu chiến tranh thế giới thứ hai; trong bài diễn văn viết sẵn mà ông không còn cơ hội để đọc, có đoạn viết như sau: “Sự thật, kể cả sự thật đau đớn nhất luôn luôn giải phóng cho con người. Sự thật gắn kết. Sự thật mang lại sự công bằng. Sự thật chỉ ra con đường hòa hợp”.

Lấy ý tưởng từ câu cách ngôn kinh điển của K. Marx và lời trăn trối thiêng liêng thống thiết lớn lao của ngài cố tổng thống Ba Lan trên, chúng tôi viết bản tham luận theo yêu cầu của Hội Nhà Văn Việt Nam này.
Đoxtoiepxki (Dostojewski), nhà văn vĩ đại nhất của chủ nghĩa hiện thực Nga và thế giới, từng tuyên ngôn rất hoa mỹ, rằng: “Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới”. Chúng tôi thêm: “Sự thật sẽ cứu chuộc thế giới”. Sự thật sẽ cứu chuộc nền văn học của chúng ta, cứu chuộc Tổ Quốc ta, nếu chúng ta cả gan một lần cùng nhau: “Gọi sự vật bằng tên của nó” theo cách ngôn của phương Tây.

Nếu đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam thử một lần hợp tác với đất nước, với dân tộc Việt Nam mở “HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG CHỐNG GIẶC NÓI DỐI” để tìm ra con đường cứu nguy dân tộc đang trên đà suy vong, thì công này của quý vị rất lớn. Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh…để bảo tồn đất nước. Tất cả các thứ giặc trên cộng lại cũng không ghê gớm bằng giặc nói dối đang tàn phá Tổ Quốc ta, giống nòi ta. Lần này, nếu nhân dân ta không vùng lên đáng tan BỌN GIẶC CÓ TÊN LÀ DỐI TRÁ, chắc chắn đất nước ta sẽ bị kẻ thù phương Bắc nuốt chửng, như mấy nghìn năm trước chúng đã nuốt chửng toàn bộ các dân tộc Bách Việt từng định cư lâu dài phía nam sông Dương Tử.

Chúng tôi viết bản tham luận này cũng để nhằm hưởng ứng cuộc hội thảo: ”Văn học nghệ thuật  phản ánh hiện thực đất nước hôm nay” do Ban Tuyên giáo Trung Ương vừa tổ chức tại Đà Lạt trong hai ngày 12-13/7/2010 với hơn hai trăm văn nghệ sĩ và các nhà lý luận phê bình hàng đầu Việt Nam tham dự. Cuộc hội thảo dũng cảm kêu gọi văn nghệ sĩ từ trên mây tỉnh giấc, quay về với hiện tình đất nước do GS.TS. Phùng Hữu Phú (Ủy viên trung ương đảng, phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo trung ương, chủ tịch Hội đồng lý luận phê bình trung ương, trưởng ban chỉ đạo hội thảo). Theo “Đại từ điển Tiếng Việt” trang 803, từ “hiện thực” có nghĩa như sau: “Cái có thật, tồn tại trong thực tế” (Bộ Giáo dục & Đào tạo – Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam-NXB Văn hóa thông tin xuất bản 1998). Như vậy, khái niệm “hiện thực” chính là sự thật đã và đang xảy ra trong thực tại trên đất nước ta. Cuộc hội thảo của Ban tuyên giáo trung ương vừa qua có thể được gọi bằng một cách khác: “ Văn học nghệ thuật phản ánh sự thật của đất nước hôm nay”. Muốn phản ánh được sự thật của đất nước hôm nay, việc trước tiên của chúng ta là phải nhìn ra sự thật, gọi đúng tên sự vật, không phải sự thật tô hồng hay sự thật bôi đen, mà sự thật đúng như nó đang tồn tại khách quan quanh ta.

Lâu nay, vẫn nghe dân gian xì xào nửa hư nửa thực rằng: “Các thế lực thù địch (xin lỗi, tiên sư nó) nói cái gì hình như cũng đung sắc đúng, ban tuyên giáo trung ương (xin lỗi ) nói cái gì hình như cũng sờ ai sai…” thì quả là chưa chắc; bằng chứng là trong hoàn cảnh đất nước mà sự thật trốn biệt như hôm nay, thì việc ban tuyên giáo trung ương kêu gọi nhà văn chúng ta hãy mở mắt, từ bỏ giấc nam kha vô tích sự quá dài để nhìn vào sự thật, nói lên sự thật đất nước, là một việc làm quá đúng.

Tất nhiên, sự thật mà Ban Tuyên giáo trung ương kêu gọi nhà văn nhìn nhận được nhìn bằng mắt thường, chứ không phải sự thật bịt mắt bắt dê, hay sự thật được nhìn bằng mắt kẻ khác, nhìn bằng những thấu kính ảo, kính lồi, kính lõm, hay chiếc gương chiếu yêu, chiếu bóng…Thâm ý của ban tuyên giáo trung ương hình như muốn chúng ta tìm lại phong trào : “nói thẳng, nói thật” thời kỳ đối mới năm 1986 -1987 do Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh phát động?

Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, trong cuộc gặp mặt văn nghệ sĩ năm 1987, đã làm gương nói thẳng nói thật, khi ông đặt vấn đề rốt ráo cho văn học nghệ thuật là nhà nghệ sĩ phải có tự do sáng tác; ông nói  : “ Cởi trói như thế nào, cởi trói nói ở đây trước hết là Đảng phải cởi trói cho các đồng chí…Tôi cho rằng khi những sợi dây ràng buộc được cắt đi, sẽ làm cho văn học nghệ thuật như con chim tung cánh bay lên trời xanh…”.

Rõ ràng, qua lời Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Đảng đã thừa nhận từng trói văn nghệ sĩ và trí thức rất nhiều năm. Lần này, Ban tuyên giáo trung ương, thông qua cuộc hội thảo cấp nhà nước : “ Văn học nghệ thuật hướng vào sự thật của đất nước” đã khuyến khích kẻ hèn này là chúng tôi nói lên sự thật, toàn là những sự thật chết người, sự thật mà chính quyền cố tình giấu diếm vì món lợi của quyền lực, với sự ngụy biện chống lại lẽ phải, chống lại chân lý: “Nói ra sự thật lúc này không có lợi”. Chả lẽ vì cái lợi, vì miếng ăn mà chúng ta đành phải nói dối hết đời ông đến đời cha, hết đời con đến đời cháu hay sao? Vậy chừng nào nhà nước Việt Nam mới cho người dân chúng tôi công khai nói ra sự thật đây? Chúng tôi đành lấy lời dạy của K. Marx làm bùa hộ mệnh : “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để một lần cuối cùng nói ra sự thật của đất nước chúng ta, dẫu có bị bị làm phiền, thậm chí bị tù đầy cũng mặc. Một kẻ nói dối, một dân tộc nói dối :” lộng giả thành chân”, là một kẻ, một dân tộc không có tự do, không có độc lập, không có dân chủ, không có chân lý và lẽ phải…Khi một kẻ, một dân tộc phải núp vào sự dối trá để tồn tại, kẻ đó, dân tộc đó là một kẻ yếu, một dân tộc yếu đang trên đường suy vong. Chỉ có kẻ mạnh, kẻ tự tin, kẻ có liêm sỉ, có đạo đức mới không sợ sự thật, dù là sự thật đau đớn nhất, khủng khiếp nhất mà thôi.

Được lời như cởi tấm lòng, chúng tôi xin kể ra “SỰ THẬT ĐẤT NƯỚC” qua mắt mình, cái mà nền văn học của chúng ta lâu nay lảng tránh, làm ngơ, mặc “quốc gia hưng vong”, “ thất phu” thay vì “ hữu trách” thì hầu như cánh “thất phu” nhà văn thảy đều “ tắc trách”…Chúng tôi mong 700 tờ báo của lề phải, tức báo của đảng và nhà nước, hãy hạ cố chỉ ra những sự thật mà chúng tôi gọi tên trong bài tham luận này đúng hay sai. Còn nếu quý vị dùng công an hay nhà tù để đối thoại với chúng tôi thì quý vị đã mặc nhiên thừa nhận chúng tôi nói đúng; chỉ vì đuối lý mà quý vị mới phải dùng hạ sách là làm phiền chúng tôi, đe dọa chúng tôi thì quý vị đã không chính danh quân tử, dùng nền chính trị bá đạo ứng xử với người dân, khi người dân dám nói lên sự thật để hi vọng trên đất nước đau thương và cam chịu này le lói một nền chính trị vương đạo, dựa vào sự thật, lương tri và lẽ phải. Trong hàng trăm sự thật nhãn tiền của đất nước, chúng tôi chỉ xin kể ra ba sự thật mà thôi:

SỰ THẬT MỘT: chưa bao giờ, số phận dân tộc ta, đất nước ta có nguy cơ tiêu vong như hôm nay: nước nhà đang bị giặc ngoại bang xâm lấn bằng cuộc chiến tranh ngọt ngào, chiến tranh ôm hôn thắm thiết và tặng hoa, tặng quà anh anh chú chú, bằng cách chiếm dần hai quần đảo chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa, lấn chiếm dần dần biên giới đất liền và hải đảo, khiến nguồn lợi biển vô cùng tận của ta rồi sẽ mất hết, dân tộc ta không còn đường ra đại dương, coi như tiêu. Ngoại bang dùng chiêu bài “ý thức hệ” và “16 chữ vàng” làm dây trói vô hình, trói buộc đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam phải nhân nhượng kẻ xâm lược hết điều này đến điều khác. Trên đất liền, ngoại bang dùng con bài khai thác bauxite, mua đất thời hạn 100 năm của 18 tỉnh lấy cớ trồng rừng, thực chất là công cuộc  chiếm đất di dân theo kiểu vết dầu loang, theo kiểu “nở hoa trong lòng địch”. Đến nỗi, khi giặc chiếm Hoàng Sa rồi đặt tên quận huyện cho quần đảo này, sinh viên thanh niên biểu tình chống giặc lại bị nhà nước Việt Nam bắt. Vậy, nhà nước chúng ta hiện nay đứng về phía ngoại bang xâm lược hay đứng về phía nhân dân ta? Cũng chưa bao giờ như hôm nay, thiên nhiên và môi trường sống trên nước ta lại bị phá hoại khủng khiếp như thế: rừng bị triệt phá gần hết, sông ngòi đồng ruộng cạn kiệt nguồn nước, lụt lội kinh hoàng, khí trời bị ô nhiễm tới mức cuối cùng, nước mặn xâm hại phá hủy các đồng bằng. Chỉ cần một trận mưa lớn là Hà Nội, Sài Gòn biến thành sông do quy hoạch xây dựng phản khoa học. Hạt lúa, củ khoai, mớ rau, tôm cá, thịt gia súc, gia cầm cũng đang bị các chất hóa học độc hại chứa trong thức ăn, các chất tăng trưởng, chất bảo quản độc hại ám sát, khiến sinh tồn của giống nòi có cơ biến dạng…

Đạo đức xã hội tha hóa tới mức cuối cùng, con người hầu như không còn biết tới liêm sỉ và lẽ phải…Một ông chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô và rất nhiều quan chức cao cấp trong tỉnh Hà Giang chơi gái vị thành niên do ông hiệu trưởng trường trung học Sầm Đức Xương bắt các cháu nữ sinh là học sinh trong trường làm điếm, nhằm cống nạp cho các quan đầu tỉnh. Nghe nói ông Nguyễn Trường Tô, ông Sầm Đức Xương từng là những người nhiều năm liền được bằng khen vì thành tích học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh. Một sinh viên Nguyễn Đức Nghĩa từng là đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú, đã ra tay giết và cướp của chính người yêu cũ của mình một cách man rợ không phải là cá biệt trong một xã hội con giết cha, vợ giết chồng, anh em giết nhau được đưa tin đầy tràn trên các trang báo lề phải. Lối sống vô đạo đức, hành vi vô luân, con người ứng xử với con người man rợ hơn dã thú đang là vấn nạn quốc gia, có thể đưa một dân tộc vốn có văn hóa, văn hiến bốn nghìn năm tới chỗ diệt vong…Không nhìn ra những nguy cơ chết người này, liệu 100 năm nữa Tổ Quốc Việt Nam chúng ta còn tồn tại không? Dòng giống con Lạc cháu Hồng còn tồn tại không ?

Nền giáo dục Việt Nam hôm nay là một nền giáo dục thiếu trung thực
, đúng như ý kiến của ông phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã công nhận. Đạo đức trong giáo dục Việt Nam hôm nay đồng nghĩa với dối trá : thày dối trá thày, trò dối trá trò, quản lý giáo dục báo cáo láo cốt lấy thành tích, nạn mua bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước đang là đại họa của nền giáo dục . Hầu hết sách giáo trình, sách giáo khoa…là sách đạo văn. Cán bộ có chức có quyền đua nhau làm thạc sĩ, tiến sĩ…lấy bằng thật nhưng học giả. Nạn dùng tiền mua bằng cấp, mua học hàm học vị đang diễn ra công khai trong cái chợ trời giáo dục Việt Nam. Việc Hà Nội vừa qua đưa chỉ tiêu “xóa mù tiến sĩ” cho cán bộ công nhân viên nhà nước đã nói lên học vị tiến sĩ chẳng còn giá trị gì cả. Có lẽ trong vài năm tới, sau việc Bộ Giáo Dục ra chỉ tiêu đào tạo thêm 23.000 tiến sĩ , sẽ dẫn tới chiến dịch xóa mù tiến sĩ trên phạm vi toàn dân. Nhiều ông cán bộ cấp cao có học vị tiến sĩ nhưng chưa có bằng tốt nghiệp đại học, thậm chí có vị chưa có bằng tốt nghiệp cấp 2 vẫn lấy được học vị tiến sĩ. Việc chính trị hóa môn văn, môn lịch sử, môn triết học, chính trị hóa nền giáo dục…đã tạo cơ sở cho sự dối trá làm bá chủ đất nước. Giáo dục như thế sao có thể đào tạo ra những công dân chân chính? Đây là dấu hiệu suy vong lớn nhất của dân tộc do nền giáo dục thiếu tính nhân văn, thiếu tính chân thật gây ra. Những quả bom B 52 tinh thần là nền giáo dục đi chệch hướng chân thiện mỹ đang rải thảm lên tinh thần dân tộc, thì ai là người phải chịu trách nhiệm trước lịch sử đây ?

Than ôi, sau những quả bom tinh thần có tên là giáo dục chế độ tự ném vào mình, chỉ cần ngoại bang ném bồi thêm mấy quả bom thật vào hai đập thủy điện Sơn La và Hòa Bình là đồng bằng Bắc Bộ và cả Hà Nội sẽ biến mất, dân tộc sẽ biến mất…Hai đập thủy điện khổng lồ trên nghe đâu lại nằm trên vết nứt động đất…mới hãi hùng làm sao ? Đầu nguồn sông Hồng, đầu nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc đã và đang xây hàng trăm đập thủy điện, khiến hai con sông chính của đất nước khô cạn dần, không còn đủ nguồn nước tưới cho hai đồng bằng chính nuôi sống dân tộc. Cách Móng Cái 60 km, tại Phòng Thành, Trung Quốc đang xây nhà máy điện hạt nhân rất lớn; nếu có sự cố kiểu Chec-nư-bin vào mùa gió bấc, Hà Nội và dân đồng bằng Bắc Bộ có thể sẽ chết hết vì nhiễm phóng xạ hạt nhân…

SỰ THẬT HAI : Chưa bao giờ như hôm nay, trên đất nước ta, giặc nội xâm có tên là tham nhũng lại hoành hành ngang nhiên, kinh hãi như dịch hạch đến thế. Dân có tham nhũng không  Không ! Thế thì ai là giặc nội xâm, là giặc tham nhũng? Thưa, chính quyền! Chỉ kẻ có chức có quyền mới tham nhũng được mà thôi. Vụ tham nhũng mới nhất như một đòn hiểm ác đánh một cú chí tử vào đất nước là tập đoàn Vinasihn – một nấm đấm thép của chính phủ – đã cướp đi của nhân dân số tiền khổng lồ là 80.000 tỷ đồng. Cứ thử làm tròn dân số nước ta là 90 triệu người (thực ra dân số Việt Nam mới chỉ trên 85 triệu dân), vị chi mỗi người dân vừa bị tập đoàn quốc doanh Vinasihn cướp đi gần 9.000.000 đ. Chín triệu đồng với người nông dân là một nguồn vốn lớn: một gia đình nông dân có bốn nhân khẩu chẳng hạn, đã vừa bị Vinasihn cướp đi nhãn tiền 36.000.000 đ. Đã có bao nhiêu tập đoàn Vinasihn cướp hết tiền của nhân dân trong quá khứ, trong hiện tại chưa bị phát hiện? Những nấm đấm thép của chính phủ như các tập đoàn kinh tế: tập đoàn Than, tập đoàn Điện, tập đoàn khoáng sản… đã và đang đấm chí tử vào hầu bao dân nghèo Việt Nam. Theo kiểm toán nhà nước, năm 2008, các tập đoàn kinh tế – nắm đấp thép – đã làm thất thoát 10 tỷ đô la. Năm 2009, số thất thoát ( đổ tội cho lỗ vốn) cũng không nhỏ hơn số 10 tỷ đô la năm trước. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh, các công ty quốc doanh đang là đại họa cho quốc gia; chứng tỏ thành phần kinh tế rường cột của mô hình xã hội chủ nghĩa này đã hoàn toàn thất bại. Về quốc nạn tham nhũng, bà Phạm Chi Lan, chuyên viên kinh tế cao cấp của chính phủ đã phải cay đắng thừa nhận “ bọn nắm đấm thép – chúng nó ăn hết tiền của dân rồi” như sau : “Một khi vẫn còn các ông lớn chủ đạo vẫn ngốn hết nguồn lực của đất nước và thâu tóm hết quyền thiết kế chính sách có lợi cho mình, thì làm sao thằng nhỏ động lực kinh tế tăng tốc được” (tuần Việt Nam Nét 22/07/2010)

Tại sao nhà nước ta hiện nay vốn có hai chính quyền cồng kềnh, chồng chéo nhau, dẵm đạp lên nhau: một chính quyền theo hệ Đảng và một chính quyền theo hệ nhà nước với hàng vạn ban thanh tra, hàng vạn chi bộ bốn năm sáu tốt, với hầu hết mấy triệu đảng viên gương mẫu đều đã học tập tốt đạo đức Bác Hồ mà sao giặc tham nhũng lại ngang nhiên hoành hành trắng trợn từ vi mô đến vĩ mô đến như vậy? Quan tham nhìn từ xã trở lên không thấy lao động chân tay, không thấy lao động trí óc, chỉ sử dụng một thứ lao động có tên là LAO ĐỘNG LÃNH ĐẠO mà ai ai cũng giàu có hơn dân thường hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu, hàng tỉ lần là sao? Chung quy lại, có phải là do thể chế sai, mô hình chính trị sai: VỪA ĐÁ BÓNG VỪA THỔI CÒI, VỪA ĐI THI, CHẤM GIẢI VỪA PHÁT GIẢI VỪA ĐƯỢC LÃNH GIẢI . NHÀ NƯỚC – ĐẢNG MỘT MÌNH MỘT CHỢ :VỪA THAM NHŨNG VỪA CHỐNG THAM NHŨNG? Xin hỏi  tay phải tham nhũng, liệu tay trái có dám cầm dao chặt được tay phải hay không ?

Linh hồn triết học duy vật biện chứng Marxism nằm ở câu kinh mà đảng viên cộng sản nào cũng phải thuộc làu làu: “Mọi sự vật đều được cấu thành bởi các mặt đối lập thống nhất”. Chỉ trừ nền chính trị của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không hề nằm trong quy luật vận động này của Marx, vì nó triệt tiêu đối lập chính trị  (!)

Nền  chính trị độc đảng, độc quyền của nước ta hôm nay đang chống lại biện chứng pháp Marxism. Trong phép biện chứng do Hegel sáng tạo, Marx tiếp thu, có ba nhịp như sau: xuất đề, phản đề và tổng đề. Phản đề hay đối lập chính là linh hồn của biện chứng pháp Marxism. Chối bỏ đối lập, triệt để cấm phản đề, cấm đối lập chính trị, nền chính trị của nước ta ngày nay đang chống lại chính cái lý thuyết chủ nghĩa cộng sản mà nó thề nguyền đi theo, thành ra một nền chính trị thoái bộ, rất giống với các nền chính trị thần quyền thời trung cổ bên châu Âu.

Hãy xem khẩu hiện rất duy tâm, hoàn toàn chống lại thuyết Marxism của đảng cầm quyền: “Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh MUÔN NĂM”. Marx từng giải thích tại sao loài người thống khổ: vì loài người còn phân chia giai cấp. Mục đích của Marx là làm cho nhân loại tiến đến đại đồng, tức tiến đến thiên đường cộng sản. Muốn đến thế giới cộng sản, phải xóa bỏ các giai cấp: xóa bỏ giai cấp tư sản, xóa bỏ giai cấp vô sản, xóa bỏ nhà nước, xóa bỏ công an, quân đội, tất nhiên phải xóa bỏ cả đảng cộng sản, vì đảng cộng sản là đảng của giai cấp vô sản. Mà khi xóa bỏ giai cấp, thì đảng của giai cấp cũng không còn. Hô “ đảng cộng sản Việt Nam MUÔN NĂM” cầm bằng như hô: “Xã hội loài người có giai cấp muôn năm”! Rõ ràng hô như vậy là treo cổ chủ nghĩa Marx, là không chính danh, là tự xóa bỏ tính mục đích của đảng cộng sản.
SỰ THẬT THỨ BA: NÓI MỘT ĐÀNG, LÀM MỘT NẺO, HAY LÀ DANH KHÔNG CHÍNH THÌ NGÔN KHÔNG THUẬN
Đảng, Nhà Nước Việt Nam nói thì rất hay, nhưng làm thường ngược lại. Những nguyên tắc, nguyên lý, luật pháp, chính sách, đường lối của đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam hiện nay hầu hết đều không chính danh.

Xin chứng minh:
Trong hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam người dân được hưởng tất cả các quyền: quyền sống, quyền làm người, quyền hoạt động chính trị, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội lập đảng phái, quyền biểu tình, tự do tôn giáo, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do đủ thứ …

Chính sách hộ khẩu đã cấm tự do cư trú.
Quyền được biểu tình của dân bị cấm chỉ bởi một nghị định (do thủ tướng Phan Văn Khải ký): cấm từ năm người trở lên tụ tập hay đi hàng dọc ngoài đường, ngoài phố. Anh bạn chúng tôi có 5 đứa con, cộng hai vợ chồng là 7 người, mỗi sáng chủ nhật anh chị dẫn bầy con đi tập thể dục tại công viên cách nhà hơn cây số. Đoàn rồng rắn tí hon của anh chị không thể đi thành một hàng, mà phải bí mật xé lẻ thành hai tốp, anh dẫn 3 đứa con, chị dẫn 2 đứa con giả vờ không quen biết nhau, đi vào hai lề đường khác nhau, sợ đi chung sẽ bị công an bắt… Anh bạn này tâm sự: ra quốc lộ số một, qua một số đường phố ở các thành phố nhỏ, thấy trâu bò được ung dung đi thành bầy đàn hàng mấy chục con trên đường mà không bị công an bắt? Sao kiếp người ở Việt Nam lại tủi hổ hơn kiếp bò: con bò còn được tự do tụ tập, tự do nghênh ngang rồng rắn trên đường, được đảng và nhà nước đối xử tử tế hơn hẳn con người…là sao hở các ông trời con?

Tự do tôn giáo bị cái rọ tôn giáo quốc doanh cấm cản. Hàng trăm sư sãi, chùa chiền vốn theo một hệ phái Phật giáo riêng từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam đã bị cấm hoạt động, bắt phải vào Phật giáo quốc doanh, nếu không chịu quốc doanh hóa Phật giáo sẽ bị bắt. Công giáo cũng phải thành công giáo quốc doanh. Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành… cũng phải vào quốc doanh thì sao gọi là tự do tôn giáo? Ở một đất nước không có TÔN GIÁO TƯ NHÂN, chỉ có TÔN GIÁO QUỐC DOANH mà cứ xưng xưng toe toét: Việt Nam có tự do tôn giáo.

Điều bốn trong hiến pháp cho phép chỉ mình đảng cộng sản được nắm quyền lãnh đạo mãi mãi, đã cấm mọi công dân tự do hoạt động chính trị, trong khi quyền người dân được tự do hoạt động chính trị ghi rõ ràng trong hiến pháp. Điều 4 của hiến pháp là điều không chính danh.

Đảng và Nhà nước có trên 700 tờ báo giấy báo viết báo hình. Xã hội tự xưng  là “nhân dân làm chủ : của dân, do dân, vì dân”, “cán bộ là đày tớ nhân dân” . Tai ngược thay, chính anh đầy tớ này được độc quyền ra báo, lại cấm ông chủ ra báo là sao? Marx – sinh thời từng ca ngợi nền tự do báo chí của chủ nghĩa tư bản. Marx lên án cay độc nhà vua Phổ kiểm duyệt báo chí theo kiểu nhà nước Việt Nam hôm nay lùa tất cả nền báo chí nước nhà vào cái rọ lề phải, đánh sập hơn ba trăm blog và website cá nhân trên Internet như lời khoe khoang của ông tổng cục phó tổng cục an ninh Bộ công an trung tướng Vũ Hải Triều… Không có nền tự do báo chí tư sản, nền xuất bản tự do tư sản, không thể xuất hiện chủ nghĩa Marx. Nếu Karl Marx tái sinh xuất hiện giữa lòng Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay, chắc chắn cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản sẽ bị lính của ông Vũ Hải Triều bắt ngay tập lự.

Khi người dân không có quyền ra báo tư, lập nhà xuất bản tư…cũng có nghĩa người dân Việt Nam hiện nay không có quyền tự do ngôn luận.
Khi hiến pháp đã cho công dân cái quyền thì người dân không phải đi xin. Hiến pháp bảo công dân có quyền sống, quyền làm người thì chả lẽ khi sống là phải thở, phải ăn, phải mặc, phải yêu vợ…thì cứ mỗi lần thở, mỗi lần ăn, mỗi lần mặc, mỗi lần yêu vợ…lại phải làm đơn xin phép công an à?

Hiến pháp của các nước dân chủ văn minh sinh ra để bảo vệ người dân, đảm bảo nhân quyền, dân quyền và mọi quyền tự do của dân, cốt yếu để ràng buộc kẻ cầm quyền. Sao hiến pháp nước ta hiện nay sinh ra hầu như để chỉ trói buộc người dân và tạo hàng nghìn kẽ hở cỡ lỗ thủng con voi chui lọt cho kẻ cầm quyền tự do đánh tráo hiến pháp, tự tung tự tác, làm ngược lại hiến pháp mà không bị luật pháp ràng buộc là sao?
Quốc hiệu nước ta hiện nay xưng là: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực ra có đúng không?  Thưa không! Vì nền kinh tế nước ta từ năm 1986 đến nay là nền kinh tế thị trường, tức nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, một chủ nghĩa tư bản hoang dã. Vậy quốc hiệu nước ta muốn sát với “sự thật của đất nước” như gợi ý của Ban Tuyên giáo, phải đặt lại là: “Cộng hòa tư bản chủ nghĩa Việt Nam” mới chính danh.

Chủ nghĩa xã hội nói cho cùng là một mô hình ảo, hoàn toàn không có thật. Hồi chúng tôi theo học tại học viện Goocki bên Liên Xô năm 1988, thường nghe dân Liên Xô định nghĩa về chủ nghĩa xã hội theo mô hình Lenin-Stalin như sau: “Chủ nghĩa xã hội là con đường vòng vèo nhất, đầy máu và nước mắt nhất, khốn nạn nhất để đi lên tư bản chủ nghĩa”. Liên xô, với mô hình xã hội chủ nghĩa trại lính (hay trại tập trung) đã phải mất 74 năm đi vòng vèo trong máu xương, ngục tù, trong đày đọa của những quần đảo Gu-lắc hắc ám, man rợ…để năm 1991 mới tới được nền kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa. Quốc hiệu của nước ta như vậy là không chính danh.

Cái đuôi “Định hướng xã hội chủ nghĩa” được gắn vào đít khái niệm kinh tế thị trường của nhà nước ta hiện nay là một cái đuôi giả, một cái đuôi  nhựa chạy bằng cục pin sắp thối của Trung Quốc. Theo nghĩa từ điển: ”định hướng” có nghĩa là xác định phương hướng, mà điểm tới đã được xác định cụ thể. Ví dụ ông A hẹn ông B qua điện thoại, rằng mai ta gặp nhau ở Hồ Con rùa, tập kết tại đó ăn sáng, uống café, định hướng Buôn ma thuật mà tới Plây-ku nhé! “Xã hội chủ nghĩa” là khái niệm ảo trên giấy, chưa có thật trên đời và sẽ không thể có thật vì nó dựa trên những nguyên lý ảo tưởng, bịa đặt, phi khoa học.

Đưa đất nước đi vào chỗ không có thật, định hướng tới cõi không có thật mà đến thì than ôi, thà giết đất nước đi còn hơn! Nên khẩu hiệu: “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” in trên đầu tờ Văn Nghệ của Hội Nhà Văn Việt Nam, nếu theo tiêu chí “hướng về sự thật” của Ban tuyên giáo chỉ dẫn, phải đặt tên lại cho đúng với thực chất ngữ nghĩa của từ điển là: “Vì Tồ quốc, vì chủ nghĩa không có thật” mới đúng. Không có sự thật đi kèm, mọi lý thuyết, mọi mô hình xã hội, mọi lời hứa đều là sai trái, ảo tưởng, hứa hão, đúng như K. Marx đã nói.
Đồng nghĩa đảng cộng sản là đất nước, đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội là Tổ quốc là không chính danh. Đảng cộng sản mới chỉ có 5 triệu đảng viên, còn nhân dân Việt Nam ngoài đảng chiếm đa số tới hơn 80 triệu dân, có phù phép kiểu gì, đảng cộng sản cũng không thể biến thành đất nước Việt Nam được. Đảng nghĩa là phe phái, là một nhóm người. Một nhóm người sao có thể biến thành tất cả được, nên danh từ ĐẢNG TA dùng để gọi đảng cộng sản là không chính danh. Liên xô đã bỏ ra 74 năm để tìm mà không thấy chủ nghĩa xã hội đâu, chỉ thấy trại tập trung, thấy nhà tù nhiều hơn trường học. Lênin-Stalin-Mao…đã biến nhân dân các nước Nga, Tàu, Cuba, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Cămphuchia, hàng chục nước Đông Âu …thành hàng tỉ con chuột bạch cho cuộc thí nghiệm máu cộng sản chủ nghĩa bằng bạo lực, bằng cải tạo áp đặt, bằng thuyết đấu tranh giai cấp tàn bạo nhưng đã thất bại hoàn toàn. Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Đông Âu giờ đã đi theo tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm ảo, nên khẩu hiện: “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” là rất buồn cười, giống như nói : “ Yêu nước là yêu cái không có thật”…vậy…
Quốc hội nước CHXHCN VN được đảng cộng sản và nhà nước phong cho là cơ quan lập pháp cao nhất của nhân dân Việt Nam là không chính danh. Vì thực tế, quốc hội này chỉ là cơ quan ngoại vi của đảng, do đảng lãnh đạo; quốc hội mà 98% dân biểu là đảng viên của một đảng duy nhất thì việc gọi quốc hội này của dân là một trò hề, là không chính danh; quốc hội này của đảng, dân nào có quyền bính gì trong quốc hội giả hiệu này?

Việc một nhóm người không ai khiến, tự nhiên nhảy phóc ra đấu trường xã hội ngót trăm năm nay, hung hãn cầm mác cầm lê cầm búa cầm liềm cấm cản những nhóm người khác lập phe đảng là không chính danh, không logic, không công bằng, không có luật hay chỉ là luật rừng?
Đảng cộng sản Việt Nam không do nhân dân Việt Nam bầu ra, nên sự tồn tại của đảng để tuyệt đối cầm quyền là không chính danh. Đúng như Mao nói rằng chế độ chuyên chính vô sản của ông ta là do súng đẻ ra: “Súng đẻ ra chính quyền”, tức là SÚNG BẦU RA CHÍNH QUYỀN…Mấy chục năm nay, người ta đã cố tình gọi nhầm SÚNG là DÂN: “súng bầu lên chính quyền thì lại nói dối là dân bầu”…Cũng giống như ( giả dụ thôi, hi vọng đừng biến thành sự thật!) sau bài viết này, công an gọi tên Trần Mạnh Hảo lên… dọa bắn; Hảo ta vốn là một con cáy 64 tuổi biết cầm bút, thấy súng há mồm sắp đối thoại với mình, sợ vãi đái, nghĩ mình miệng hùm gan sứa: tránh voi không xấu mặt nào , sức đâu cãi lại miệng súng, đành phải ký vào giấy cung khai rằng  báo cáo các anh, em đã nói sai, đã nói dối, vì đảng ta và nhà nước ta từ xưa tới nay thật thà hơn đếm, có biết nói dối là gì đâu. Thế rồi báo An Ninh hôm sau hí hửng : trước lý lẽ sắc bén và thực tế sáng ngời chính nghĩa của nhân dân, tên Hảo đã không đủ lý lẽ đối thoại, đã ăn năn hối lỗi vì dám vu cáo cho đảng ta nói dối…

Việc đảng cộng sản Đông Dương ra đời năm 1930 theo thuyết Marxism là không chính danh.
Marx bảo : chủ nghĩa tư bản xuất hiện với đại công nghiệp. Marx lại bảo phuơng thức kinh tế châu Á không nằm trong chủ nghĩa Marx. Marx phán : giai cấp vô sản là hệ quả của giai cấp tư bản. Nghĩa là Tư bản đẻ ra vô sản. Trung Hoa, Việt Nam và cả châu Á, thế giới Ả rập, Ấn độ, Mỹ La tinh, Phi Châu…trong thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ thứ 20 chưa hề có chủ nghĩa tư bản. Năm 1930, Việt Nam chưa có ông bố tư bản, sao lại có đứa con tên là vô sản ra đời? Bịa ra một giai cấp vô sản ảo để thành lập ra đảng của giai cấp vô sản là đảng cộng sản Đông Dương là không chính danh, là trái với thuyết Marxism, là xây nhà trước, xây nền nhà sau.
Sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Đông Dương nêu khẩu hiệu: “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc trốc tận rễ” là không chính danh. Diệt trí thức là diệt đi hai ông đại trí thức Marx-Engels ư? Trí thức là linh hồn của xã hội, diệt trí thức cũng có nghĩa là diệt luôn xã hội loài người.

Năm 1958 – 1960 Bắc Việt Nam (năm 1975 là cả nước) tuyên bố tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội với “mo cơm và quả cà”, không thông qua con đường tư bản chủ nghĩa theo sự xúi dại của Lênin là không chính danh. Theo Marx, linh hồn của xã hội chủ nghĩa là đại công nghiệp; chỉ có nền nông nghiệp lạc hậu mà dám thí mạng cùi tiến lên xã hội chủ nghĩa là tiến lên toàn dân cùng chết đói, hay tiến lên công xã kiểu diệt chủng như Khơ me đỏ, tiến lên “đại nhảy vọt” kiểu Mao khiến mấy chục triệu người chết đói, dân chúng phải ăn thịt cả con mình như cuốn: “Mao Trạch Đông công và tội” do nhà xuất bản Thông Tấn xã Hà Nội vừa in và phát hành đã kể.
Năm 1986, theo gương Trung Quốc, đảng cộng sản Việt Nam thay vì chôn chủ nghĩa tư bản (như Marx-Engels dạy) đã quay ngược lại chôn chính học thuyết cộng sản, bằng cách xây dựng nền kinh tế tự do đa thành phần tư bản chủ nghĩa, đưa nhân dân Việt Nam thoát khỏi chết đói. Theo Marx dạy : kinh tế nào, chính trị ấy : hạ tầng cơ sở kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc chính trị. Nay, kinh tế Việt Nam là tư bản tự do mà chính trị vẫn giữ nền chính trị độc tài xã hội chủ nghĩa là sai quy luật, là không chính danh, là đầu chuột đuôi voi, là ông nói gà bà nói thóc lép, là hồn Trương Ba, da hàng thịt…

Marx –Engels từng công khai tuyên bố trong trước tác của mình: “Chúng tôi không có ý định đoán định tương lai một cách giáo điều mà mong muốn dùng phương pháp phê phán thế giới cũ để tìm được một thế giới mới…Việc kiến tạo và tuyên bố một lần và mãi mãi những giải đáp cho các vấn đề của mai sau không phải là việc của chúng tôi…”. Rõ ràng, chính Marx và Engels đã coi học thuyết của mình chỉ là những giả thuyết, những phép thử, những phỏng định về tương lai, tuyệt nhiên không giáo điều cho lý thuyết của mình là chân lý vĩnh hằng. Những ai đã, đang coi học thuyết Marx là chân lý bất biến là đang chống Marx, là muốn dùng Marx giả, Marx dỏm bịt mắt trí thức và nhân dân để quyết câu giờ giữ quyền lực là không chính danh.

Theo định đề: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” của Marx, chúng ta thấy thực tế đã không chấp nhận cuộc thí nghiệm “XÓA TƯ HỮU” hãi hùng nhất trong lịch sử loài người của Marx-Engels-Lenin với tham vọng: “XÓA TƯ HỮU, XÓA CÁ NHÂN, XÓA NHÀ NƯỚC, XÓA MÂU THUẪN, XÓA ĐẢNG CỘNG SẢN, XÓA CÁC GIAI CẤP VÀ ĐẢNG CỦA NÓ, XÓA CHÍNH BIỆN CHỨNG PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI CỘNG SẢN ÁO TƯỞNG PHI BIỆN CHỨNG – NƠI KHÔNG CÓ CÁI DỐI TRÁ, KHÔNG CÓ CÁI ÁC ĐỘC VÀ CÁI XẤU XA, NƠI TUYỆT ĐỐI TỰ GIÁC, TUYỆT ĐỐI TỰ DO, TUYỆT ĐỐI GIÀU CÓ, TUYỆT ĐỐI KHÔNG CÓ NGOẠI TÌNH, KHÔNG CÒN HÔN NHÂN, KHÔNG CÒN GIA ĐÌNH KIỂU CŨ, KHÔNG CÒN NGÂN HÀNG, KHÔNG CÒN TIỀN TỆ …”.

Đó là một xã hội bịa đặt không có thật  : vì không có cái ác thì cái thiện cũng bị triệt tiêu, không có cái ngụy thì cái chân cũng biến mất, không có cái xấu thì cái đẹp cũng chẳng còn…
Một trăm sáu mươi hai năm từ khi “Tuyên ngôn đảng cộng sản” của Marx –Engels ra đời đến nay, hàng trăm triệu sinh mạng đã bị giết, hàng tỉ người bị tù đầy, bị ngược đãi để “các vị lãnh tụ kính yêu” làm cuộc thí nghiệm đẫm máu cải tạo thế giới từ TƯ HỮU sang CÔNG HỮU, từ TƯ BẢN sang VÔ SẢN, từ CÁ NHÂN sang TẬP THỂ, XÓA QUỐC GIA chỉ còn QUỐC TẾ, XÓA HOÀN TOÀN THẾ GIỚI CŨ, NHÂN LOẠI CŨ chỉ còn MỘT THẾ GIỚI MỚI TINH, NHÂN LOẠI MỚI TINH KHÔNG CÒN TRUYỀN THỐNG, KHÔNG CÒN LỊCH SỬ, KHÔNG CÒN QUÁ KHỨ, KHÔNG CÒN TÔN GIÁO…Chao ôi, khi một con người không còn quá khứ, một dân tộc không còn lịch sử, con người ấy, dân tộc ấy sẽ biến thành tinh tinh, xã hội tinh tinh hay thành những cục bột biết ca hát ?…Rút cục, cuộc thí nghiệm cộng sản kinh hồn trên phạm vi toàn thế giới đã hoàn toàn thất bại. Những nước cộng sản cứng đầu nhất như Bắc Triều Tiên, Cu Ba hiện nay cũng đang rục rịch thí nghiệm mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tập tẹ học lại những bước đi làm giàu vỡ lòng nhân loại đã có từ trước khi Marx ra đời. Đây là sự thật không thể nào chối cãi, dù cãi cối cãi chày bằng còng số tám hay nhà tù, họng súng…v…v…v…

Cám ơn Marx, đã cho chúng tôi đề bài: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để làm một bài tập làm văn về sự thật này. Cám ơn ngài cố tổng thống nước Ba Lan tự do Lech Kaczynxki đã cho chúng tôi ý tưởng rất hay : chỉ có sự thật mới giải phóng con người, làm chủ đề bài tham luận. Chúng tôi cũng xin cám ơn tiêu đề của cuộc hội thảo: “ Văn học nghệ thuật hướng về sự thật đất nước” của Ban Tuyên giáo trung ương đã gợi ý, khích lệ chúng tôi dám liều mạng nói lên những sự thật cay đắng nhất, khủng khiếp nhất của đất nước chúng ta hiện nay, những sự thật chết người, ai ai cũng biết mà vì sợ tù tội nên không ai dám nói ra.

Viết đến đây, chúng tôi chợt nhớ đến chuyện “ Bộ long bào của vị hoàng đế” của văn hào Andecxen. Thằng bé trong thiên truyện đã liều mạng xé toang bộ long bào hoang tưởng của vị hoàng đế kia bằng cách hét thật to: ông vua cởi truồng! Tiếng kêu thất thanh của chân lý ấy có làm đám đông đang bị quyền lực hôn mê, luôn miệng tung hô vị hoàng đế mặc bộ long bào đẹp nhất tỉnh ra hay không ? Nhưng hình như ngay sau khi gọi sự vật bằng tên của nó, thằng bé do sự thật, do tự do phái đến đã biến mất. Do đó, mới còn biết bao nhiêu ông vua triết học cởi truồng, vua chính trị cởi truồng, vua cách mạng cởi truồng, vua chủ nghĩa cởi truồng… đang đi nhông nhông ngoài xã hội, ngoài phố xá, đã và đang được những đám đông giả vờ cuồng tín hòng trục lợi xúm vào vạn tuế, ca ngợi các ngài khoác những bộ long bào tuyệt vời của trần gian…

Sự thật giản dị nhường ấy, sao bị cả đám đông lờ đi? Mới hay sự cám dỗ của dối trá có bùa ngải quỷ sứ, mê hoặc con người trong bóng tối, trong đe dọa, trong hấp lực của củ cà rốt treo trước miệng con lừa… Sự thật chỉ có thể tồn tại công khai dưới ánh sáng mặt trời. Xã hội của những hội kín vây bủa con người trong lừa mị, trong sợ hãi u u minh minh, luôn xua đuổi và cầm tù sự thật. Chối bỏ sự thật, những xã hội do băng đảng hội kín cầm quyền hầu như không bao giờ đi cùng đường với lẽ phải và công lý.
Chúng tôi không dám làm thằng bé trong thiên truyện kia của Andecxen; làm vị thiên sứ của sự thật này, coi chừng khả năng biến mất là điều có thể xảy ra. Hãi qúa!
Chúng tôi chỉ xin kể ra ba vị nhà văn Việt Nam hình như cũng đang thử đóng vai trò của thằng bé ấy, vai trò thiên sứ của sự thật, của tự do.

Đây là lời của nhà văn Đỗ Chu  bùi ngùi, chua xót , khi ông nói về sự lãnh đạo của đảng với nhà văn; sao nhà văn giống chú cún con ve vảy đuôi theo ông chủ trong sân nhà thế: “Tớ yêu đảng như yêu vợ. Vợ còn sống thì tớ nghe vợ. Vợ chết thì tớ lập bàn thờ khấn vái cho đến chết. . Đảng cũng là vợ của tớ. Đảng bẩn thì tớ mua xà phòng cho đảng tắm. Mua nước hoa cho đảng thơm. Đảng nói thì không được cãi. Đảng bảo ăn là ăn. Đảng bảo uống là uống. Đảng bảo nằm là nằm. Đảng bảo lên giường là lên gường. Đảng bảo ra đường là ra đường…” (Trích bài: “Nhà văn Đỗ Chu yêu đảng như yêu vợ” của Nguyễn Trọng Tạo in trên website Trần Nhương ngày 14/7/2010). Về việc này, mới thấy Nguyện Vĩ xưa thánh thật, khi ông viết: “nhà văn An Nam khổ như chó!”

Đây là mấy câu thơ của nhà văn, nhà thơ Nguyễn Đình Chính (con trai cố nhà văn Nguyễn Đình Thi, người từng rất nhiều năm trước và sau 1975 làm tổng thư ký (ngày nay gọi là chủ tịch) Hội Nhà Văn Việt Nam): “Mấy thằng bạn văn nghệ chửi đổng hát hay / Cổ họng rắn hổ mang trơn tuột liếm mồi trong các HỘI ĐOÀN / hót hít chính trị như chó hít hóng cứt…” (“Trích trong bài thơ “Đêm Sài Gòn” in trong tập thơ “Chẹc chẹc” của Nguyễn Đình Chính, do tân hình thức Publishing Club ấn hành trên mạng 2010)

Đây là nhà văn đại tá công an Mai Vũ, trước đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ XIII, đã lên tiếng đòi tự do sáng tác, mặc dù từ năm 1987, tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã cởi trói cho các nhà văn:
Đây là vấn đề nhạy cảm mà không phải ai cũng có dũng khí dám nói thật. Nhằm thiết lập một trật tự xã hội tư duy đồng chiều, chúng ta đã chính trị hóa mọi đời sống xã hội. Điều đó thật tai hại, nó làm khô héo tinh thần dân tộc. Chính trị hóa khoa học đã dẫn đến phủ nhận chân lý khách quan, làm méo mó khoa học. Trong lịch sử Xô Viết trước kia, đã có thời người làm vườn Lưxenkô – Mitsurin được tôn vinh như những nhà cải cách vĩ đại, còn Mooc găng, Menđen là những kẻ phục vụ chủ nghĩa tư bản vì thuyết gen di truyền. Kết quả, nhà di truyền học thiên tài Vavilôp đã phải tự sát, còn nền di truyền học nước Nga thì lụn bại, để lại một vết nhơ đau đớn trong đời sống khoa học xã hội Xô Viết. Đó là vụ ngụy khoa học lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Chính trị hóa giáo dục cũng chỉ đẻ ra những chiến binh đánh bom tự sát, chứ không đẻ ra những công dân xây dựng tương lai.
Hội Nhà văn không phải là dàn hợp xướng để hát theo cái gậy chỉ huy của người nhạc trưởng. Nó là lãnh địa của những tư duy và sáng tạo cá nhân, nó là một tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của các nhà văn lấy sứ mạng phục vụ Tổ quốc và nhân dân trên hết. 

Nhà văn viết theo mệnh lệnh của trái tim, mà trái tim nhà văn thuộc về Tổ quốc và nhân dân. Anh ta là tội đồ và đáng nguyền rủa nếu thóa mạ Tổ quốc và dân tộc. Còn khuynh hướng chính trị tùy thuộc quyền lựa chọn của mỗi nhà văn. Hãy để con ngựa Văn tung vó trên cánh đồng bát ngát của tự do”. (“Về Hội nhà văn của chúng ta” của Mai Vũ, in trên website Trần Nhương ngày 11-7-2010)
Tiếp nối ba nhà văn trên, chúng tôi xin mời quý vị đọc lại bào thơ: “Bài ca sự thật” của chúng tôi (Trần Mạnh Hảo) đã in trên báo “Tuổi Trẻ” số tất niên ngày 24- 01-1987

BÀI CA SỰ THẬT
Sự thật của tôi
Sự thật của anh
Sự thật của chúng ta
Sự thật của mọi người?

Nhân loại có bao thời
Sự dối trá làm quan toà phán xử
Bru-nô ơi trái đất vẫn tròn
Mà chân lý nghìn sau còn trả giá

Nhưng đất nước vẫn đi tìm sự thật
Trong câu hát có mồ hôi nước mắt
Có con nghê đá đầu đình cười cợt các triều vua
Có thằng Bờm chẳng tin lời hứa hão
Cái quạt mo không để phú ông lừa
Vua Hùng ơi Người đi tìm sự thật
Bằng cách ngày đầu năm xuống ruộng cày bừa

Bao triều đại xưa đổ vì ưa nói dối
“Muốn nói gian làm quan mà nói”
Sự thật giấu trong nhà dân đen
Sự thật từng vật vờ đi như ăn mày đầu đường xó chợ
Sự thật làm anh hề, chú mõ
Sự thật như nàng Thị Kính oan khiên
Sự thật trốn vào ngụ ngôn, ngạn ngữ sấm truyền
Sự thật có khi mượn Xuý Vân mà giả dại
Sự thật chiếc lá đa bay qua bao thời đại
Bay về đây trời nổi can qua
Con vua thất thế quét chùa sãi ơi !

Vĩnh biệt chú Cuội
Vĩnh biệt thành tích ma, báo cáo láo thành thần
Bệnh hình thức gọi sai tên sự vật
Người đói phải nói lời no
Vị đắng sao lại kêu là mật ?
Ngục tù mang nhãn hiệu tự do !

Vĩnh biệt khái niệm quét vôi và từ ngữ nước sơn
Đạo đức dính trên đầu môi chót lưỡi
Vĩnh biệt những bóng ma cơ hội
Những cái đầu già cỗi tự bên trong
Những con mắt nhìn người bằng bóng tối
Có nhận ra tia nắng mới trong lòng ?

Tôi là người tập yêu sự thật
Tập nghe nên có lúc ù tai
Tập nhìn nên chói mắt
Đất nước đổi thay
Cơn đau đẻ những dòng sông quằn quại!

Hạt thóc và hạt máu có bao giờ nói dối?
Bốn nghìn năm dân tộc tôi
Đi từ bờ bên kia
Đến bờ bên này của sự thật
Để mỗi con người hôm nay trên mặt đất
Được cầm trong tay một tia nắng mặt trời …
Sài Gòn ngày 15-1-1987
Trần Mạnh Hảo

Để kết thúc bản tham luận, xin kính mời quý vị cùng chúng tôi hô 3 khẩu hiệu sau :
Khẩu hiệu một:
KHÔNG CÓ SỰ THẬT, KHÔNG CÓ LẼ PHẢI VÀ CHÂN LÝ
( xin hô ba lần : không có, không có, không có)
Khẩu hiệu hai:
CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
(xin hô ba lần: chỉ có, chỉ có, chỉ có )
Khẩu hiện thứ ba:
SỰ THẬT LÀ TIÊU CHUẨN CỦA CHÂN LÝ
(xin hô ba lần: tiêu chuẩn, tiêu chuẩn, tiêu chuẩn)
Xin cám ơn quý vị
Viết tại Sài Gòn 26-07-2010
© T.M.H.