Wednesday 15 August 2012

Phải Xã hội hóa, Công khai hóa, Quốc tế hóa và Phi nhạy cảm hóa vấn đề Biển Đông

14-8-12
TS. Trần Trường Thủy
Chương trình Nghiên cứu Biển Đông - Học viện Ngoại giao
Dân Luận hoan nghênh việc Đảng và Nhà nước ta quyết định công khai hóa vấn đề Biển Đông. Tuy hơi muộn, nhưng còn hơn không. Để có thể huy động được nguồn lực xã hội, việc công khai hóa và xã hội hóa vấn đề vốn được coi là "nhạy cảm" này là hết sức cần thiết.

Lao Động: Sự thật không thể bị bóp méo

(LĐ) - Cuộc hội thảo tầm cỡ quốc gia vừa qua về biển Đông tại Hà Nội ngày 17.3.2009 đã mở ra một giai đoạn mới cho các nhà nghiên cứu Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông.
Việc nghiên cứu về Trường Sa, Hoàng Sa không còn là vấn đề nhạy cảm, nên né tránh của các nhà khoa học VN nữa. Không chỉ các học giả tiếp cận các vấn đề nhạy cảm trên, mà tất cả những ai ham mê khoa học từ già đến trẻ, muốn đi tìm chân lý, đi tìm sự thật đều có thể tham gia. Dĩ nhiên cần đến sự đồng cảm, hỗ trợ từ mọi phía, từ chính quyền đến người dân, trường học, các tổ chức nghiên cứu hay các "Mạnh Thường Quân", tính thực tiễn mới có hiệu quả.
Hội thảo này không phải là cuộc hội thảo đơn lẻ, mà còn hứa hẹn nhiều cuộc hội thảo kế tiếp, không chỉ ở trong nước mà còn ở ngoài nước nữa để sự thật lịch sử đến với mọi người, chứ không bị cố ý bóp méo dưới bàn tay của quốc gia nào đó đang tranh chấp chủ quyền với VN.
Một sinh viên VN vốn là cử nhân tiếng Pháp tại Đại học Quốc gia Hà Nội, được Đài Loan cho học bổng làm thạc sĩ về lịch sử, có xin phép tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã dịch một vài chương trong luận án tiến sĩ "Quá trình xác lập chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa của VN" . Đọc xong, có giáo sư đại học ở Đài Loan nói: Không ngờ sự thật lịch sử về chủ quyền của VN rõ ràng đến như thế.
Sau hội thảo, sự thật lịch sử về chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa của VN sẽ được phổ biến rộng rãi hơn đến từng người VN, nhất là giới trẻ tại các trường học. Không những các công trình nghiên cứu quốc gia đã nghiệm thu sẽ được công bố công khai, mà còn được hỗ trợ dịch ra mọi thứ tiếng phổ biến khắp thế giới. Tất cả các nhà khoa học từ lịch sử, địa lý, môi trường - nhất là kinh tế biển - sẽ nhập cuộc. Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học sẽ có giá trị thực tiễn, đem lại chất men yêu nước, đoàn kết xây dựng nội lực hùng cường để bảo vệ hiệu quả chủ quyền quốc gia với Trường Sa.
TS Hãn Nguyên Nguyễn Nhã
Tiến sĩ sử học, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
(TuanVietNam) - Giới học giả nhìn nhận, Hoàng Sa và Trường Sa như hai đồn biên phòng trên biển. Ai chiếm giữ được các quần đảo này sẽ khống chế được Biển Đông, khống chế được Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, nắm giữ được yết hầu kinh tế của các quốc gia Đông Á, từ đó đẩy Mỹ ra khỏi khu vực.
Ngày 17 tháng 3 năm 2009, trong khuôn khổ Chương trình nghiên cứu Biển Đông, Học viện Ngoại giao tổ chức hội thảo lần thứ nhất với chủ đề “Tranh chấp chủ quyển tại Biển Đông: Lịch sử, Địa chính trị và Luật pháp quốc tế”. Tuần Việt Nam xin giới thiệu bài viết của Ts. Trần Trường Thuỷ, thành viên chương trình nghiên cứu biển Đông.
Tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông
Phải xây dựng được hồ sơ pháp lý đầy đủ về vấn đề này [Biển Đông và Hoàng Sa - Trường Sa] dùng để đấu tranh chính trị, tuyên truyền, đàm phán và lúc cần cho việc phân xử tại Tòa án quốc tế.
Với mục đích tập hợp trí tuệ các nhà nghiên cứu từ các trung tâm khoa học, các trường đại học, các học giả độc lập, dưới góc độ cá nhân trao đổi học thuật, tiếp cận đa ngành về các khía cạnh lịch sử, luật pháp quốc tế và quan hệ quốc tế liên quan đến tình hình Biển Đông để thống nhất nhận thức, tăng cường hiểu biết, rút ra các nhận định gợi ý cho việc kiến nghị chính sách, hội thảo là sự khởi đầu trong khuôn khổ Chương trình nghiên cứu biển Đông của Học viện Ngoại giao, đã thu hút sự tham gia của gần 100 học giả.
Hội thảo bao gồm 3 phiên: phiên 1 - Lịch sử các quá trình tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển tại Biển Đông; phiên 2 - Luật pháp quốc tế và các tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông; phiên 3 - Biển Đông và quan hệ quốc tế tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Sau đây là tổng hợp mộ số ý kiến chính trong các bài tham luận và phát biểu tại Hội thảo.
Lịch sử các tranh chấp:
Năm 1909 (đến nay là đúng 100 năm) là mốc đánh dấu khởi đầu tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa giữa VN và TQ bằng sự kiện chính quyền Quảng Đông – TQ cử hạm đội nhỏ đi khảo sát trái phép Hoàng Sa (Tây Sa), cho rằng Tây Sa là vô chủ.
Nhiều học giả coi đối tượng chính trong tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông của Việt Nam là Trung Quốc. Chiến lược của TQ là tổng thể, nhất quán nhằm biến Biển Đông thành ao nhà, là không gian sinh tồn. Trung Quốc thi hành chính sách gặm nhấm dần trên thực địa, “tằm ăn rỗi” và giỏi sử dụng “thời và thế”. Năm 1956, TQ chiếm nửa phía đông quần đảo Hoàng Sa khi Pháp thất thủ tại VN và năm 1974 chiếm xong toàn bộ Hoàng Sa khi Mỹ tháo chạy và Nam Việt Nam sụp đổ. Năm 1988, quan hệ Xô-Trung cải thiện, VN đang bị cô lập trên trường quốc tế, TQ nam tiến và chiếm một số đảo, đá tại Trường Sa của VN. Năm 1995, sau chiến tranh lạnh, lợi dụng khoảng trống quyền lực tại Đông Nam Á khi Liên Xô sụp đổ và Mỹ hạn chế tham dự tại khu vực và rút khỏi căn cứ Subic tại Philippin, TQ chiếm dải Vành khăn từ Philippin. TQ thi hành chính sách “bẻ đũa từng chiếc”, “chia để trị” đối với các nước tranh chấp khác tại ĐNA. Biên giới biển của TQ là biên giới linh hoạt, mạnh thì nở ra, yếu thì co lại.
Đài Loan được coi như một phần của TQ và đứng về phía TQ trong các tranh chấp tại Biển Đông. Các nước khác trong tranh chấp Trường Sa là Philippin, Malaysia tham gia tranh chấp muộn và chỉ tranh chấp một phần quần đảo. Các nước này lúc cần thiết là thỏa hiệp với Trung Quốc. Thỏa thuận ba bên (tiền thân là hai bên Trung-Phi) về khảo sát địa chấn năm 2005 là ví dụ.
Luật pháp quốc tế:
Đa số học giả cho rằng có những bằng chứng chứng minh chủ quyền của Việt nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thời chúa Nguyễn. Việt nam có gần khoảng 30 tư liệu các loại khẳng định chủ quyền của VN tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Các bản đồ cổ của TQ do chính người TQ vẽ từ trước năm 1909 đều chứng minh Tây Sa và Nam Sa không thuộc về TQ. Đoàn khảo cổ TQ còn phát hiện ở đảo Phú Lâm (Hoàng Sa) có bằng chứng cho việc xác lập chủ quyền của VN. Trên tất cả các tài liệu của Trung Quốc, cái tên Tây Sa và Nam Sa chỉ xuất hiện từ năm 1909. Một số sách báo phương Tây đã xác nhận VN giữ chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa.
Đường đứt khúc 9 đoạn chữ U hay còn gọi là “đường lưỡi bò” mà Trung Quốc công bố trên các bản đồ được các học giả đánh giá là thiếu cơ sở pháp lý và thể hiện rõ tham vọng độc chiếm Biển Đông. Tại TQ (và ĐL) cũng có hai luồng ý kiến trái chiều nhau về đường này. Vùng lịch sử thuộc chủ quyền (toàn vẹn hay một phần) của TQ, hay đường vẽ để chỉ các đảo nằm trong đường này thuộc chủ quyền của TQ.
Nên 4 hóa vấn đề tranh chấp ở Biển Đông: Xã hội hóa, Công khai hóa, Quốc tế hóa và Phi nhạy cảm hóa.
Tuy nhiên có ý kiến cho rằng cần phải xem xét những bằng chứng pháp lý mà TQ đưa ra hợp lý đến mức độ nào. TQ làm rất tốt công tác nghiên cứu, quảng bá, chuận bị dư luận, đây là “cuộc chiến không cân sức” của VN. Có học giả băn khoăn Việt Nam không thể đòi hỏi chủ quyền toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Việt Nam có chủ quyền có thể chứng minh được tại quần đảo Hoàng Sa và một số đảo, đá của quần đảo Trường Sa và chủ quyền, quyền chủ quyền tại thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế mở rộng từ bờ biển.
“Sức mạnh thời đại” Việt Nam cần dựa vào trong đấu tranh ở Biển Đông chính là luật pháp quốc tế. Các học giả cũng đề cập khả năng đưa vấn đề tranh chấp ra giải quyết thông qua các cơ chế quốc tế như Trong tài hay Tòa án quốc tế. Nhưng điều này được đánh giá là khó khả thi, vì theo quy định của Tòa án quốc tế thì phải có sự đồng thuận của các bên trong tranh chấp. Trung Quốc nhiều lần công khai không muốn đưa vấn đề ra toà án quốc tế. Các nước cùng tranh chấp khác cũng khó chấp nhận vì chứng cứ đều không vững chắc.
Khả năng đưa tranh chấp ra Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc cũng bất khả thi vì TQ là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an.
Tuy nhiên các cơ chế quốc tế còn có chức năng tư vấn, có ý nghĩa chính trị và pháp lý nhất định.
Biển Đông và Quan hệ quốc tế ở khu vực Châu Á –Thái Bình Dương:
Đa số học giả cho rằng cần xem xét vấn đề Biển Đông trong tổng thể quan hệ quốc tế khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Đánh giá các nước lớn đứng sau các nước nhỏ. Vai trò của các nước ASEAN, của Mỹ, Nhật, Hàn quốc. Cần xem xét Biển Đông trong chiến lược tổng thể, lâu dài của Trung quốc; xem xét mối liên hệ giữa Biển Đông với vấn đề Đài loan, Bắc Triều Tiên.
Các học giả tham gia hội thảo đều nhìn nhận tầm quan trọng của Biển Đông trên bản đồ địa chính trị thế giới: Biển Đông chiếm vị trí chiến lược quan trọng, là nơi giao nhau của nhiều tuyến hàng hải bận rộn bậc nhất thế giới, với nguồn tài nguyên sinh vật sống phong phú và có trữ lượng dầu mỏ, khí đốt và nhiều khoáng sản quý hiếm.
Có ý kiến cho rằng trong chiến lược của TQ, dầu mỏ và khí đốt chỉ là mục tiêu trước mắt nhưng lâu dài là vấn đề địa chiến lược, địa chính trị của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hoàng Sa và Trường Sa như hai đồn biên phòng trên biển. TQ chiếm giữ được Hoàng Sa và Trường Sa sẽ khống chế được Biển Đông, khống chế được Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, nắm giữ được yết hầu kinh tế của các quốc gia Đông Á, từ đó đẩy Mỹ ra khỏi khu vực.
Trong các nước dính líu đến tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông chỉ có Trung Quốc là có đủ khả năng về quân sự để đánh chiếm toàn bộ Biển Đông. Gần đây các học giả và kể cả một số sĩ quan quân đội Trung Quốc đã đề cập nhiều đến khả năng dùng vũ lực hoặc dùng quân sự để gây sức ép với các nước khác nhằm thực hiện các tham vọng đối với Biển Đông.
Tuy nhiên, nhiều đại biểu nhận định, dùng vũ lực để độc chiếm Biển Đông sẽ không phải là lựa chọn của Trung Quốc, ít nhất vào thời điểm này, khi thời và thế chưa đạt. Hơn nữa TQ đang có nhu cầu ưu tiên cho chiến lược phát triển hòa bình và những ràng buộc pháp lý quốc tế trong điều kiện hiện nay sẽ buộc Trung Quốc phải cân nhắc cẩn trọng. TQ quan tâm đến hình ảnh quốc gia, uy tín quốc tế, muốn đóng vai trò là “cổ đông có trách nhiệm”.
Quan hệ Trung-Việt trong khuôn khổ đối tác chiến lược toàn diện. Những tuyên bố cấp cao song phương Việt - Trung đều khẳng định giải quyết bằng phương pháp hòa bình các tranh chấp và tìm giải pháp hợp tác cùng phát triển.
Hơn nữa Mỹ quan tâm và sẽ không để TQ độc chiếm Biển Đông, đe dọa các lợi ích sát sườn của Mỹ và các đồng minh của Mỹ tại khu vực CA-TBD. Tuy nhiên, khả năng thỏa hiệp Trung-Mỹ tại Biển Đông cũng được một số đại biểu cảnh giác.
Khả năng tiến hành thương lượng hoà bình về chủ quyền giữa các nước có tranh chấp được đề cập đến nhưng tính khả thi không được đánh giá cao do không nước nào muốn nhân nhượng về chủ quyền.
Hơn nữa, lập trường của các nước về khu vực tranh chấp rất khác nhau. Trung Quốc chỉ muốn bàn về "chủ quyền" và "gác tranh chấp cùng khai thác" ở những khu vực mà mà Trung Quốc chưa củng cố sự chiếm đóng một cách vững chắc. Mặt khác, nếu không xác định rõ chủ quyền thì việc dàn xếp các thoả thuận "gác tranh chấp cùng khai thác" là hết sức khó khăn.
Tăng cường công tác nghiên cứu, nâng cao năng lực của đội ngũ khoa học về Biển Đông. Cấp học bổng đi học tại nước ngoài. Tuyên truyền và giáo dục cho thế hệ trẻ về Biển Đông, nuôi dưỡng tinh thần yêu nước và ý chí bảo vệ chủ quyền dân tộc của các thế hệ mai sau, coi đó là một chiến lược quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông của ta.
Tuy nhiên, các quan hệ chính trị, ngoại giao tốt đẹp giữa Việt Nam với các nước liên quan như Trung Quốc, Phillipinnes, Malaysia tại thời điểm này sẽ tạo điều kiện cho các thương lượng hòa bình đi vào thực chất.
Một số ý kiến về vai trò của các cường quốc ngoài khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ. Ấn Độ và Nhật Bản phản đối việc sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp trên biển, muốn tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực Biển Đông để kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc. Bảo đảm an ninh hàng hải ở Biển Đông không phải là ưu tiên hàng đầu trong chính sách an ninh biển của Nga, nhưng Nga có nhiều quyền lợi ở khu vực này. Liên doanh dầu khí Việt – Nga là cơ sở kinh tế ở nước ngoài đem lại cho Nga nhiều lợi ích lớn. Tuy nhiên, khi xảy ra tranh chấp, Nga thường tìm cách thoả hiệp. Vai trò của các cường quốc này là hạn chế.
Một số khuyến nghị tại hội thảo:
  • Chính sách của VN về Biển Đông phải đặt trong tổng thể chính sách đối ngoại toàn diện, bao gồm cả an ninh, phát triển và nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam. Phải đặt vấn đề Biển Đông trong quan hệ quốc tế khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Theo dõi các động thái của TQ, quan hệ Trung – Mỹ, Trung Quốc- các nước ASEAN, quan hệ Trung-Đài.
  • Phải xây dựng được hồ sơ pháp lý đầy đủ về vấn đề này dùng để đấu tranh chính trị, tuyên truyền, đàm phán và lúc cần cho việc phân xử tại Tòa án quốc tế.
  • Quốc hội cần thông qua luật về chủ quyền đối với Hoàng Sa - Trường Sa. Chính phủ cần có chiến lược biển toàn diện và đồng bộ, liên quan đến nhiều lĩnh vực, trong đó chú ý đến việc hiện đại hóa quân đội nhằm tăng cường sức mạnh răn đe.
  • Nên 4 hóa vấn đề tranh chấp ở Biển Đông: Xã hội hóa, Công khai hóa, Quốc tế hóa và Phi nhạy cảm hóa.
  • Đấu tranh bảo vệ chủ quyền của VN đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, biển Đông dựa trên hai sức mạnh là dân tộc và thời đại. Dân tộc: là khối đại đoàn kết dân tộc (trong và ngoài nước); và Thời đại là luật pháp quốc tế, tính chính nghĩa của VN.
  • Tăng cường công tác nghiên cứu, nâng cao năng lực của đội ngũ khoa học về Biển Đông. Cấp học bổng đi học tại nước ngoài. Tuyên truyền và giáo dục cho thế hệ trẻ về Biển Đông, nuôi dưỡng tinh thần yêu nước và ý chí bảo vệ chủ quyền dân tộc của các thế hệ mai sau, coi đó là một chiến lược quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông của ta.
Nhiều đại biểu bày tỏ mong muốn nên có thêm nhiều hội thảo tương tự để đông đảo các học giả có thể đóng góp cho việc nghiên cứu bảo vệ chủ quyền của đất nước.

RFA: Hội thảo đầu tiên về tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông

Lần đầu tiên một cuộc hội thảo được tổ chức tại Hà Nội để bàn về vấn đề tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông.
Cuộc hội thảo này quy tụ hơn 70 nhà nghiên cứu Việt Nam trong và ngoài nước. Chủ đề nhắm tới là đẩy mạnh việc thu thập, nghiên cứu tài liệu về biển Đông nhằm tạo điều kiện tiếp cận những yếu tố khoa học và pháp lý trong quá trình xử lý vấn đề biên giới trên biển.
Các chuyên gia trong cuộc hội thảo tập trung vào biên giới biển, đặc biệt ở ba khía cạnh gồm vấn đề Trường Sa, vấn đề Hoàng Sa, vấn đề đường biên giới chữ U mà Trung Quốc gọi là đường lưỡi bò.
Cuộc hội thảo nhằm tìm ra chiến lược ứng phó với tình hình về biển Đông cũng như nghiên cứu thực hiện một đề án nhằm chuẩn bị cho một khung pháp lý vững chắc và khoa học để chứng minh chủ quyền với thế giới.
Nhiều chuyên gia trong cuộc hội thảo thừa nhận rằng hiện nay giới nghiên cứu về biển Đông còn quá mỏng và yếu trong khi đó lại không khai thác hết lực lượng trí thức hải ngoại về vấn đề này.
http://danluan.org/node/705

No comments:

Post a Comment