Friday 31 August 2012

Ngoại trưởng Hoa Kỳ chúc mừng Quốc khánh Việt Nam

31-8-12

Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton
CỠ CHỮ
Nhân lễ Quốc khánh Việt Nam 2 tháng 9, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã thay mặt Tổng thống Obama gửi lời chúc mừng đến nhân dân Việt Nam.

Bà nhắc lại chuyến đi Việt Nam hồi tháng 7 để duyệt lại các tiến bộ đạt được kể từ khi Hoa Kỳ và Việt Nam bình thường hóa quan hệ cách đây 17 năm.

Trao đổi thương mại từ chỗ hầu như không bao nhiêu trong năm 1995 nay đã lên đến gần 22 tỉ đôla mỗi năm.

Bà nhắc lại Hoa Kỳ và Việt Nam đã hợp tác về nhiều mặt, từ phát triển an ninh hàng hải, cải tiến y tế công cộng, cứu trợ thiên tai, nhưng vẫn thẳng thắn giải quyết nhu cầu cần bảo vệ nhân quyền tốt hơn, trong đó có tự do tôn giáo.

Bà nói rằng năm nay cũng là năm thứ 20 của chương trình Fulbright, đã đưa nhiều người lãnh đạo Việt Nam hiện nay và trước đây sang Mỹ học.

Gần 15.000 sinh viên Việt Nam đang theo học tại Mỹ, con số này ngày càng tăng, khiến cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước được tăng cường.

Ngoại trưởng Hoa Kỳ nói trong năm sắp tới, hai nước sẽ có thêm những cuộc trao đổi giữa người dân với người dân, đối thoại nhân quyền và mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác.

Bà nói Hoa Kỳ có quyết tâm thắt chắt quan hệ chiến lược giữa hai nước dựa trên sự tương kính và ước muốn chung là xây dựng hòa bình và ổn định trên khắp châu Á Thái Bình Dương.

Nguồn: US Department of State
http://www.voatiengviet.com/content/ngoai-truong-my-chuc-mung-quoc-khanh-viet-nam/1499342.html

Ngắm lâu đài nghìn tỷ của đại gia Trầm Bê – chủ tịch Ngân hàng Sacombank

30-8-12
Doanh nhân Trầm Bê là người nắm giữ cổ phần lớn nhất tại ngân hàng Phương Nam và là chủ bệnh viện Triều An tại TP.Hồ Chí Minh, dân trong vùng đều nể ông vì ông hay làm từ thiện. Ông có một dinh thự lớn tại quê nhà ở xã Hàm Giang, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh.
Tòa lâu đài này nằm trên khu đất rộng hơn 30 ha, trong khuôn viên có rất nhiều cây cảnh đẹp và lạ, và đặc biệt có hơn 1000 cây tùng các loại được nhập từ Nhật bản về, có những cây trị giá đến gần triệu đô. Theo đánh giá của một số chuyên gia về cây cảnh, vườn nhà ông Trầm Bê cây cảnh trị giá cả ngàn tỷ đồng. 

 Tòa lâu đài có năm tháp trên mái
Phía bên hông lâu đài
 Cửa chính của lâu đài
 Vườn tùng trong khuôn viên

Cây  tùng cổ từ Nhật Bản đem về
 Chỗ nào cũng thấy cây tùng


 Một cây Thanh Tùng
Chủ nhân rinh từ châu Phi về một bộ xương voi ma mút cao hơn một tầng nhà 
Chiếc đèn chùm trị giá nhiều tỷ đồng có đường kính rộng gần 10m được làm
từ châu Âu, các thanh giằng của nó được dát bằng vàng được đặt tại gian chính của tòa nhà



Dưới đây là một số thông tin về ông Trầm Bê – chủ nhân tòa lâu đài nói trên :
Họ tên:TRẦM BÊCMND số: 020620491
Năm sinh:10/09/1959

Quốc tịchViệt NamDân tộc: Hoa
Quê quán:Trà Vinh

Chức vụ đang nắm giữ:+Thành viên HĐQT Ngân hàng Sacombank

+ Chủ tịch HĐQT Bệnh viện Triều An
+ Phó Chủ tịch CTCP Thương mại Vàng bạc đá quý Phương Nam (NJC).


+ Thành viên HĐQT CTCP Đầu tư Xây dựng Bình Chánh (BCCI)
Lĩnh vực kinh doanhBất động sản, Ngân hàng

Địa chỉ thường trú601 Hồng Bàng, Q.6, TP Hồ Chí Minh
Gia đình:Vợ: Viên Đông Anh


Con trai: Trầm Trọng Ngân


Con trai: Trầm Khải Hòa


Con gái: Trầm Thuyết Kiều
Theo tinvn24h.com
Cám ơn hình ảnh do đọc giả gửi qua email TTXVA. 

Trung Quốc lại công kích Hoa Kỳ về vấn đề Biển Đông

31-8-12
CỠ CHỮ
Hôm thứ 4 (29-08-2012), trong lúc Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton chuẩn bị lên đường công du 6 nước ở Á châu Thái Bình Dương, kể cả Trung Quốc, giới hữu trách ở Bắc Kinh lại một lần nữa lên tiếng chỉ trích Washington về điều mà họ gọi là mưu toan bao vây Trung Quốc để ngăn chận sự trỗi dậy của quốc gia có nền kinh tế lớn hàng thứ nhì thế giới này.

Bài bình luận của Tân Hoa Xã của nhà nước Trung Quốc tố cáo Hoa Kỳ tìm cách “khuấy động những vụ tranh chấp lãnh thổ” giữa Trung Quốc với các lân bang Á châu, trong đó có Việt Nam, Philippines và Nhật Bản, để đạt mục tiêu “ngư ông đắc lợi.” Bài viết cũng khuyên Hoa Kỳ nên từ bỏ tham vọng hão huyền là thống trị Á châu Thái Bình Dương và thế giới.

​​​Ông Ralph Cossa là một nhà phân tích của Diễn đàn Thái Bình Dương (Pacific Forum) ở Hawaii, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế ở Washington. Ông cho rằng sự chú tâm của Hoa Kỳ đối với khu vực Á châu Thái Bình Dương không có nghĩa là Washington muốn bao vây Trung Quốc hay ngăn chận sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Ông Cossa nói: "Trung Quốc đã không thể trỗi dậy nếu không có đầu tư của Mỹ và chính sách của Mỹ từ thời Tổng thống Nixon là chủ động giao tiếp với Trung Quốc và giúp cho Trung Quốc lớn mạnh. Vì vậy, nếu Hoa Kỳ muốn tìm cách bao vây Trung Quốc thì chắc chắn Hoa Kỳ sẽ không đạt được mục tiêu qua việc đầu tư hàng tỉ đô la để làm cho Trung Quốc trở thành một phần của thế giới của các nước công nghiệp hóa."

(Để nghe toàn bộ bài viết, xin bấm vào nút PLAY hình tam giác)
Trung Quốc công kích Hoa Kỳ về vấn đề Biển Đông


Ông Cossa, cũng như nhiều nhà phân tích khác, cho rằng chiến lược “quay lại Á châu” của Tổng thống Barack Obama phản ảnh sự quan tâm của Hoa Kỳ trước sự lớn mạnh nhanh chóng của Trung Quốc về mặt quân sự tại một khu vực vô cùng quan trọng cho an ninh và sự thịnh vượng của toàn thế giới.

Đây cũng chính là nơi mà trong vài năm vừa qua Trung Quốc đã có những hành động được nhiều người mô tả là “hung hãn” trong vụ tranh chấp chủ quyền biển đảo với 4 nước vùng Đông Nam Á là Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei.

Hôm thứ 3, một ngày trước khi Trung Quốc đưa ra lời đả kích dữ dội về vấn đề Biển Đông, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Victoria Nuland đã tái khẳng định lập trường của Washington là những vụ tranh chấp ở Biển Đông cần phải được giải quyết thông qua những cuộc đàm phán đa phương và dựa trên luật pháp quốc tế. Bà Nuland nói thêm như sau:

"Chúng tôi không muốn thấy những vụ tranh chấp ở Biển Đông hay bất kỳ nơi nào khác được giải quyết bằng sự hăm dọa, bằng vũ lực. Chúng tôi muốn thấy tranh chấp được giải quyết tại bàn thương thuyết."

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết Ngoại trưởng Clinton sẽ thảo luận về vấn đề Biển Đông trong các cuộc gặp gỡ sắp tới với các nhà lãnh đạo ở Indonesia, Brunei, và Trung Quốc, và tại cuộc hội nghị thượng đỉnh APEC tổ chức ở thành phố Vladivostok của Nga.

Ông Ralph Cossa nói rằng ông không nghĩ rằng bà Clinton sẽ đạt được nhiều tiến bộ trong cuộc thảo luận với các nhà lãnh đạo Trung Quốc trong hai ngày mồng 4 và mồng 5 tháng 9.

Ông Cossa nói: "Cuộc đối thoại này, xét ở một số khía cạnh, là một cuộc nói chuyện giữa những người điếc. Người Trung Quốc nghĩ rằng chúng ta đang can thiệp để phá bỉnh, trong khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta đang hành động như một cường quốc có trách nhiệm và là một nước quan tâm tới các nước đồng minh của mình, quan tâm tới tự do hải hành, và quan tâm tới sự ổn định của khu vực."

Một ngày sau khi lớn tiếng chỉ trích Washington về vấn đề Biển Đông, Trung Quốc cũng đã cho đăng một bài bình luận yêu cầu chính phủ Mỹ “ngưng chơi trò nước đôi” trong vụ tranh chấp giữa Trung Quốc với Nhật Bản về chủ quyền của nhóm đảo không người ở nằm giữa Đài Loan và Okinawa mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư Đài và Nhật Bản gọi là Senkaku.

Bài bình luận nêu lên việc phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Victoria Nuland phát biểu tại cuộc họp báo hôm thứ 3 rằng tên chính thức của Mỹ đối với quần đảo có tranh chấp là Senkaku, và Hoa Kỳ đã cùng với Nhật Bản tiến hành một cuộc tập trận chung kéo dài 37 ngày giữa lúc vụ tranh chấp Trung-Nhật đang mỗi ngày một căng thẳng hơn. Bài bình luận nói rằng những sự việc này chứng tỏ Washington ủng hộ Tokyo trong lúc tuyên bố không nghiêng về bên nào trong vụ tranh chấp.

Bà Bonnie Glaser, một nhà nghiên cứu chính sách ngoại giao và an ninh Trung Quốc của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế ở Washington, cho biết Hoa Kỳ có bổn phận pháp lý là giúp Nhật Bản phòng vệ quần đảo Senkaku và đó là điều đã được xác định từ nhiều năm nay, trước khi vụ tranh chấp Trung-Nhật trở nên sôi sục trong thời gian gần đây. Bà Glaser cho đài VOA biết trong một cuộc phỏng vấn mới đây:

"Chính phủ Mỹ rất cẩn thận trong việc không đứng về phe nào trong vụ tranh chấp lãnh thổ này. Nhưng bởi vì những hòn đảo này nằm dưới sự quản lý hành chánh của Nhật cho nên chính phủ Mỹ, cả những chính quyền trước Tổng thống Obama, đã tuyên bố rõ ràng là những đảo này nằm trong phạm vi của Điều 5 của Hiệp ước Phòng thủ chung Mỹ-Nhật. Và vì thế, trong trường hợp những đảo này bị tấn công, nước Mỹ có bổn phận giúp nước Nhật phòng vệ mặc dù nước Mỹ không thật sự thừa nhận là chủ quyền những đảo này thuộc về Nhật Bản."

Cũng liên quan tới vụ tranh chấp Trung-Nhật, một bài viết đăng trên tờ The Atlantic ở Washington hôm 22 tháng 8 đã đề cập tới một sự việc khá lý thú: Giữa lúc nhiều người Trung Quốc “đằng đằng sát khí” đòi chính phủ “đánh cho Nhật Bản một trận tơi bời” và kêu gọi đồng bào của họ tẩy chay hàng hóa của Nhật, trang mạng xã hội Weibo ở Trung Quốc đã đăng một câu hỏi để thăm dò ý kiến dân chúng ‘Nếu con của bạn sinh ra trên quần đảo Điếu Ngư, bạn muốn nó lấy quốc tịch Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, hay Nhật Bản?’

Kết quả là số người chọn Đài Loan chiếm 40%, 25% chọn Hồng Kông và 20% chọn Nhật Bản trong lúc chỉ có 15% muốn cho con của họ mang quốc tịch Trung Quốc. Thậm chí còn có người trả lời rằng “nước nào cũng được, miễn là không phải Trung Quốc là được!”
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-cong-kich-hoa-ky-ve-van-de-bien-dong/1498895.html

Chống lại Bắc Kinh

31/08/2012

Chống lại Bắc Kinh

(Một phương án chính sách khác của Mỹ đối với Trung Quốc)
Aaron L. Friedberg, Foreign Affairs, Sept/October 2012
Trần Ngọc Cư dịch
Khác với chiến lược ngăn chặn của Mỹ trong thời Chiến tranh lạnh, đường lối hiện tại của Washington đối với Trung Quốc (TQ) không phải là sản phẩm của một tiến trình hoạch định có tính toán. Đường lối này không được soạn thành luật lệ (codified) bằng các văn kiện chính thức. Thật vậy, nó không có lấy một cái tên. Tuy vậy, trong phần lớn hai thập kỷ vừa qua, Mỹ đã theo đuổi một chiến lược nói chung là nhất quán, gồm hai mũi: hợp tác và quân bình lực lượng với Trung Quốc (engagement and balancing).

Các Tổng thống Mỹ từ Richard Nixon đến Barack Obama đã vận động làm thân với Trung Quốc xuyên qua chính sách ngoại giao, thương mại, hợp tác khoa học, và trao đổi giáo dục và văn hóa. Từ giữa thập niên 1990, nhiều chính quyền liên tiếp còn có những biện pháp nhằm duy trì cán cân lực lượng có lợi cho Mỹ tại Đông Á. Khi Trung Quốc trở nên lớn mạnh hơn, Mỹ đã tăng cường khả năng quân sự của mình trong khu vực, gia tăng hợp tác chiến lược với các đồng minh truyền thống, và xây dựng những quan hệ đối tác mới với các nước khác cùng chia sẻ mối quan ngại như Mỹ, chẳng hạn Ấn Độ và Singapore.
Một nửa của chiến lược này là các nỗ lực hợp tác nhằm ràng buộc Trung Quốc vào hệ thống thương mại toàn cầu và các cơ chế quốc tế, ngăn không cho TQ chống lại nguyên trạng (the status quo) và dùng phần thưởng để khuyến khích TQ trở thành một thực thể mà chính quyền George W. Bush gọi là “kẻ dự phần có trách nhiệm” (responsible stakeholder) trong hệ thống quốc tế hiện hữu. Mặc dù các nhà làm chính sách đã trở nên thận trọng hơn trong những năm gần đây, từ lâu họ vẫn hy vọng rằng thương mại và đối thoại cuối cùng sẽ giúp chuyển đổi TQ thành một nước dân chủ tự do. Nửa kia trong chiến lược của Washington đối với TQ, tức quân bình lực lượng, có vẻ đã duy trì được ổn định và chặn đứng được hành động xâm lược và các mưu mô chèn ép của TQ trong khi chính sách làm thân đã có những kết quả tuyệt vời.
Nhưng những biến chuyển gần đây đã dấy lên những mối hoài nghi nặng nề về cả hai yếu tố của chiến lược này. Thương mại và đối thoại qua nhiều thập kỷ đã không thúc đẩy nhanh chóng tiến trình dân chủ hoá chính trị TQ. Thật ra, tình hình trong vài năm qua đã được đánh dấu bằng một cuộc đàn áp ngày một gia tăng nhắm vào các nhà bất đồng chính kiến trong nước. Trong lúc đó, quan hệ kinh tế từng được ca ngợi giữa hai cường quốc Thái Bình Dương đã trở thành một nguyên nhân xung đột quan trọng. Và bất chấp các kỳ vọng gia tăng hợp tác, Bắc Kinh thực sự đã làm quá ít trong việc giúp Washington giải quyết các vấn đề quốc tế bức thiết, như việc Bắc Triều Tiên nắm được vũ khí hạt nhân hay các âm mưu của Iran nhằm phát triển loại vũ khí này. Sau cùng, thay vì chấp nhận nguyên trạng, các lãnh đạo TQ đã có thái độ mạnh mẽ hơn trong nỗ lực kiểm soát các lãnh hải và tài nguyên nằm ngoài khơi vùng duyên hải của họ. Về vấn đề quân bình lực lượng, việc Trung Quốc tiếp tục xây dựng các khả năng quân sự đi liền với việc Mỹ cắt giảm chi tiêu quốc phòng sắp tới, cho thấy rằng sự phân bố lực lượng trong khu vực sẽ làm nghiêng hẳn cán cân về phía có lợi cho Trung Quốc.
Lý do tại sao chúng ta không thể chỉ sống hòa bình với nhau
Ngày nay, giới lãnh đạo chóp bu TQ vừa kiêu căng vừa cảm thấy bất an. Theo quan điểm của họ, việc Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) tiếp tục cai trị là thiết yếu đối với sự ổn định, thịnh vượng, và uy tín của Trung Quốc; chẳng phải là sự trùng hợp tình cờ, sự cai trị này cũng tối cần cho sự vinh thân phì gia và an toàn bản thân của họ. Mặc dù họ gần như đã chấp nhận một dạng thức nào đó của chủ nghĩa tư bản trong lãnh vực kinh tế, nhưng họ vẫn quyết giữ vững quyền lực chính trị của mình.
Quyết tâm của ĐCSTQ nhằm duy trì sự kiểm soát chính trị nói lên cảm thức của chế độ về các mối đe dọa, nói lên những mục đích, và những chính sách của họ. Vì lo lắng về tính chính đáng của mình, các nhà lãnh đạo TQ hăng hái tô vẽ cho mình trở thành những chiến sĩ bảo vệ danh dự quốc gia. Mặc dù họ tin tưởng Trung Quốc đang trên đường trở thành một cường quốc thế giới ngang hàng với Mỹ, nhưng họ vẫn lo lắng sâu sắc về tình trạng bị bao vây và sự phá vỡ ý thức hệ. Và bất chấp những nỗ lực của Washington nhằm trấn an họ về thiện chí của mình, các nhà lãnh đạo TQ tin rằng Mỹ cố tình chặn đứng sự trỗi dậy của Trung Quốc và, cuối cùng, phá hoại hệ thống cai trị độc đảng của họ.
Cũng như Mỹ, kể từ khi cuộc Chiến tranh lạnh chấm dứt, Trung Quốc theo đuổi một đường lối gần như không thay đổi đối với địch thủ bên ngoài lớn nhất của mình. Thông thường, Bắc Kinh tìm cách tránh né đối đầu trực diện với Mỹ trong khi TQ theo đuổi tăng trưởng kinh tế và xây dựng tất cả các yếu tố của “sức mạnh quốc gia toàn diện” của mình, một quan niệm chiến lược của TQ bao gồm sức mạnh quân sự, kỹ năng công nghệ, và ảnh hưởng ngoại giao. Tuy nhiên, ngay cả khi họ giữ thế thủ, các quan chức TQ cũng không chịu giữ thái độ thụ động. Họ tìm cách tiến lên từng bước, dần dần bành trướng vùng ảnh hưởng của Trung Quốc và củng cố địa vị của họ tại châu Á trong khi hoạt động âm thầm để xói mòn địa vị của Mỹ. Mặc dù họ đủ cẩn trọng để không bao giờ nói thẳng điều này, nhưng về lâu về dài họ tìm mọi cách để Trung Quốc thay thế Mỹ và đưa Trung Quốc trở về vị trí mà họ cho là chỗ đứng hợp lý của Trung Quốc như một bá quyền khu vực. Các nhà chiến lược TQ không tin rằng họ có thể đạt được mục tiêu này một cách nhanh chóng hay bằng một cuộc tấn công trực diện. Thay vì vậy, họ tìm cách trấn an các nước láng giềng, bằng cách dựa vào sức thu hút của nền kinh tế đồ sộ của Trung Quốc để chống lại các nỗ lực quân bình non trẻ nhắm vào Trung Quốc. Theo lời dạy của một nhà chiến lược quân sự cổ đại là Tôn Tử, Bắc Kinh muốn giành “thắng lợi mà không cần chiến tranh” (bất chiến tự nhiên thành), bằng cách từng bước tạo ra một tình thế mà những hành động công khai chống lại tham vọng của TQ sẽ có vẻ vô ích.
Cho đến nay sở dĩ không có được một hiệp ước thân hữu đích thực giữa Mỹ và Trung Quốc không phải do thiếu nỗ lực nhưng do một sự khác biệt cơ bản về các lợi ích giữa hai nước. Mặc dù sự hợp tác giới hạn trên một số vấn đề cụ thể là có thể thực hiện, nhưng khoảng cách ý thức hệ giữa hai quốc gia là quá lớn, và mức độ tin cậy lẫn nhau là quá thấp, thực tế này không cho phép một thỏa ước tạm thời (modus vivendi) ổn định. Điều mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay mong muốn sau cùng, nghĩa là bá quyền khu vực, không phải là điều mà các đồng nhiệm của họ tại Washington sẵn sàng chấp nhận. Vì điều này sẽ đi ngược lại một mục tiêu tiền đề (axiomatic goal) của đại chiến lược Mỹ, vốn không thay đổi qua nhiều thập kỷ nay: đó là, ngăn chặn sự thống trị ở một trong hai đầu của đại lục Á-Âu bởi một hay nhiều cường quốc có tiềm năng trở thành thù nghịch. Những lý do để giải thích mục tiêu này nằm trong một tổng hợp gồm những cân nhắc có tính chiến lược, kinh tế và ý thức hệ – và những điều này vẫn tiếp tục có giá trị cho đến một tương lai có thể trông thấy.
Một Trung Quốc không bị một sự hiện diện của Mỹ trong khu vực ngăn chặn có thể sẽ không lập tức lao vào một cuộc chinh phục lãnh thổ, nhưng sẽ ở vào một tư thế thuận lợi để thực hiện những đòi hỏi chủ quyền tại những lãnh thổ và vùng có tài nguyên đang tranh chấp. Nếu được rảnh tay khỏi phải đối phó với những đe dọa mà TQ nhận thấy quanh lãnh hải của mình, TQ sẽ phóng chiếu sức mạnh quân sự xa hơn nữa để theo đuổi lợi ích của mình tại Ấn Độ Dương, Trung Đông, và châu Phi. Hậu quả sẽ là, trong vùng ảnh hưởng đang mở rộng của Trung Quốc, các công ty Mỹ sẽ thấy khả năng tiếp cận thị trường, sản phẩm, và tài nguyên thiên nhiên của mình bị hạn chế do những dàn xếp thương mại được Bắc Kinh định đoạt. Viễn ảnh cải tổ chính trị tại các nước láng giềng dọc theo biên giới Trung Quốc cũng sẽ trở nên u ám cho đến bao giờ mà ĐCSTQ vẫn còn giữ quyền thống trị. Và từ căn cứ an toàn tại châu Á, Bắc Kinh có thể cung cấp viện trợ và động viên các chế độ độc tài ở những khu vực khác trên thế giới.
Tuy nhiên, ngay cả nếu Trung Quốc kinh qua một chuyển đổi chính trị, điều này sẽ không bỗng nhiên xoá hết mọi căng thẳng với Washington. Nếu lịch sử cho ta một chỉ dẫn nào, đấy là tiến trình tự do hóa có thể được tiếp nối bằng nội loạn (internal turmoil) làm gia tăng nguy cơ xung đột với các quốc gia khác. Một Trung Quốc dân chủ chắc chắn sẽ tìm kiếm một tiếng nói mạnh mẽ hơn trong các vấn đề khu vực, và những mục tiêu của nó sẽ không luôn luôn phù hợp với những mục tiêu của Mỹ. Nhưng trong bầu khí dân chủ về lâu về dài, viễn ảnh hợp tác Mỹ-Trung sẽ sáng sủa hơn nhiều. Một chính phủ tự tin về tính chính đáng của mình sẽ không có lý do để lo sợ sự bao vây và âm mưu lật đổ của các nước dân chủ trên thế giới. Trong khi đó, cùng với các nước không còn coi Trung Quốc là một mối đe dọa, Bắc Kinh sẽ thấy dễ dàng dàn xếp với các nước láng giềng, kể cả Đài Loan, những giải pháp mà hai bên có thể chấp nhận.
Mỹ có thể sẽ đi đến chỗ chấp nhận một Trung Quốc dân chủ làm bá quyền trong khu vực Đông Á, theo cung cách Vương quốc Anh đi đến chỗ chấp nhận vai trò bá quyền của Mỹ tại Tây Bán cầu trước đây. Nhưng, nếu không có sự chuyển đổi dân chủ về phía Bắc Kinh, Washington sẽ không sẵn sàng từ bỏ chính sách quân bình lực lượng của mình và rút khỏi khu vực này. Đồng thời, trừ phi có một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng hay một cuộc đối đầu lớn, có lẽ Washington sẽ không từ bỏ những nỗ lực duy trì quan hệ hữu nghị với Bắc Kinh. Một phiên bản nào đó của chiến lược hỗn hợp này [gồm quân bình lực lượng và hợp tác kinh tế và ngoại giao] sẽ tiếp tục kéo dài, chí ít trong một thời gian. Nhưng muốn có hiệu quả chăng nữa, thì cả hai yếu tố của chiến lược này cần phải được điều chỉnh đáng kể.
Từ khẩu hiệu đến chiến lược
Việc làm trước tiên của Mỹ là phải chống lại việc Trung Quốc đang tăng cường lực lượng quân sự, bằng cách củng cố yếu tố quân bình lực lượng trong hồ sơ chiến lược của mình. Chính quyền Obama thoạt đầu đã đi ngược khuynh hướng này, coi nhẹ chiến lược đề phòng, nhấn mạnh viễn ảnh hợp tác rộng lớn và sâu sắc hơn, và gợi ý rằng ưu tiên hàng đầu trong quan hệ Mỹ-Trung phải là điều mà James Steinberg, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, gọi là “trấn an chiến lược” (strategic reassurance). Đến năm 2010, chính quyền này đã làm một việc đáng khen là bắt đầu đảo ngược đường lối. Phản ứng lại một loạt vụ việc diễn ra trong năm đó khiến căng thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và một số nước khác, trong đó có Nhật Bản, Philippines, Nam Hàn, và Việt Nam, các quan chức Mỹ bắt đầu nhấn mạnh cam kết của họ đối với việc quân bình lực lượng. Chính quyền Obama thậm chí còn nặn ra một khẩu hiệu để mô tả ý định của mình: khi đã giảm thiểu vai trò của mình tại Afghanistan và Iraq rồi, Mỹ sẽ “xoay trục” (pivot) để hướng về Đông Á.
Nhưng cho đến nay, vấn đề chính của việc xoay trục là chiến lược này thiếu một thực chất nghiêm túc (serious substance). Những động thái đi liền với nó hoặc là chỉ có ý nghĩa tượng trưng, như dự định triển khai một số nhỏ lính thủy đánh bộ sang Australia, hay chỉ tái bố trí các lực lượng không quân và hải quân, bằng cách đưa chúng từ các khu vực khác đến khu vực Thái Bình Dương. Ngoài những cách nói bóng gió về một “trận chiến hải-không” mới mẻ (new air-sea battle), bằng các thuật ngữ tiêu biểu như “kết hợp thành mạng lưới, hợp nhất, đánh thọc sâu để làm rối loạn, phá hủy và đánh bại” các lực lượng đối phương, chính quyền Obama không nói rõ họ sẽ phải đáp trả việc Trung Quốc tăng cường các khả năng quân sự bằng cách nào. Trái lại, sau khi công bố đường lối mới này, các người phát ngôn của Bộ Quốc phòng đã chịu khó tránh né việc nhìn nhận một sự thật hiển nhiên là việc chuyển trục sẽ nhắm vào Trung Quốc là chính. Đặc biệt trong tình hình ngân sách hiện nay, thật khó biết làm cách nào mà một chính quyền có thể vận động được sự hậu thuẫn cần thiết của dân chúng, để duy trì một cán cân lực lượng có lợi thế tại châu Á, nếu chính quyền này không chịu trình bày thẳng thắn hơn nữa với người dân về bản chất của sự thách đố do sức mạnh đang gia tăng của Trung Quốc đặt ra.
Khả năng mất mát của Mỹ có thể là lớn hơn bao giờ hết. Kể từ giữa thập niên 1990, Trung Quốc đã đúc kết một chiến lược mà các nhà làm kế hoạch tại Lầu năm góc mô tả là những khả năng lấy yếu đánh mạnh “chống tiếp cận/từ chối địa bàn hoạt động” [asymmetric anti-access/area-denial (A2/AD) capabilities]. Ở trung tâm của chiến lược này là nỗ lực phát triển một kho vũ khí gồm tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình của chiến tranh cổ điển, vừa chính xác, vừa tương đối ít tốn kém. Với những vũ khí này, Trung Quốc có thể thực sự nhắm vào tất cả căn cứ không quân và quân cảng tại Tây Thái Bình Dương, cũng như đe dọa đánh chìm các tàu chiến địch trên mặt biển (kể cả tàu sân bay Mỹ) hoạt động cách duyên hải TQ hàng trăm dặm. Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) đã và đang thí nghiệm những vũ khí chiến tranh mạng và chống vệ tinh, và đã bắt đầu mở rộng lực lượng tên lửa hạt nhân liên lục địa nhỏ bé của mình.
Nếu không có một phản ứng mạnh mẽ từ phía Mỹ, những nhà hoạch định chiến lược TQ cuối cùng có thể đi đến chỗ tin tưởng rằng những khả năng A2/AD (chống tiếp cận/từ chối địa bàn) của họ là đủ gây ấn tượng để làm cho Mỹ sợ hãi không dám can thiệp hay gây ra một cuộc đối đầu trong khu vực. Tệ hại hơn nữa, họ có thể tin rằng nếu Mỹ can thiệp, họ có thể tấn công làm tê liệt các lực lượng quy ước của Mỹ tại Tây Thái Bình Dương, khiến Mỹ chỉ còn rất ít lựa chọn ngoài việc đe dọa leo thang bằng chiến tranh nguyên tử. Muốn duy trì ổn định khu vực, Mỹ phải làm giảm bớt khả năng các lãnh đạo Trung Quốc có thể coi việc tung ra một cuộc tấn công như thế là có lợi cho họ. Dĩ nhiên, một cuộc đối đầu quân sự trực tiếp Mỹ-Trung hiện nay là cực kỳ khó xảy ra (extremely unlikely). Nhưng mục tiêu chính của việc quân bình lực lượng trong chiến lược Mỹ nhất định phải là để đảm bảo rằng chiến tranh Mỹ-Trung không thể xảy ra, ngay cả khi quyền lực của Trung Quốc ngày một tăng trưởng.
Nếu không phản ứng đúng mức trước nỗ lực gia tăng quân sự của Bắc Kinh, Mỹ có thể làm mất tính khả tín trong các cam kết an ninh mà Washington đã hứa hẹn với các đồng minh châu Á. Nếu không có những dấu hiệu mạnh mẽ cho biết Mỹ vẫn tiếp tục cam kết và duy trì quyết tâm của mình, thì các nước bạn có thể đâm ra lo sợ bị bỏ rơi và chịu những cám dỗ để đi đến chỗ nhượng bộ vô nguyên tắc. Nhằm ngăn ngừa các đồng minh của mình khỏi rơi vào tình huống đó, Washington sẽ phải làm nhiều hơn nói. Bằng cách hợp tác với nhau, Mỹ và các đồng minh sẽ có thừa nguồn lực để quân bình lực lượng với Trung Quốc. Nhưng nếu Washington muốn các đồng minh phải tự mình gia tăng các nỗ lực quốc phòng, bản thân Mỹ cũng phải nghiêm khắc phản ứng lại những khả năng quân sự ngày một gia tăng của Trung Quốc. Về vấn đề châu Á, Mỹ không thể lựa chọn cái phương án mà tờ The New Yorker mô tả lần đầu là khuynh hướng “lãnh đạo từ đằng sau” (leading from behind) của chính quyền Obama.
Nhằm làm cùn mũi nhọn trong chiến lược A2/AD [chống tiếp cận, từ chối địa bàn] của Trung Quốc, trước hết Mỹ và đồng minh phải có những biện pháp phân tán, tăng cường, hoặc những biện pháp khác nhằm phòng thủ các mục tiêu mà Trung Quốc có thể tấn công trước tiên, kể cả các mục tiêu trong không gian và trên mạng Internet. Nhưng, chiến tranh hiện đại không thể thắng bằng thế phòng thủ, và cũng không thể ngăn chặn thuần túy bằng thế phản ứng (purely reactive posture). Những người chủ trương chiến lược này lý luận rằng khi Trung Quốc cải tiến khả nămg tấn công những mục tiêu nằm ngoài khơi vùng duyên hải phía Đông của nó, Mỹ phải phát triển các phương án để tiến hành các cuộc phản công rộng lớn của mình bằng vũ khí quy ước.
Dù dùng bất cứ lý luận chiến lược nào để biện minh, quan niệm về một trận chiến hải-không đã bắt đầu khuấy động tranh luận trên nhiều điểm. Nếu mở những cuộc tấn công quy ước trên quy mô lớn đánh vào Trung Quốc, việc này có thể khiêu khích một phản ứng leo thang, kể cả khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Những hệ thống vũ khí mới nhằm phóng chiếu quyền lực từ bên ngoài tầm hoạt động ngày một gia tăng của vũ khí TQ sẽ mất nhiều thời gian và ngân sách để phát triển, và chúng sẽ lấy mất các nguồn lực từ nhiều loại dự án mà xưa nay các binh chủng vẫn yêu chuộng. Chẳng hạn, thay vì cần thêm nhiều tàu sân bay và các chiến đấu cơ bắt mắt có người lái, thiết tưởng Mỹ cần một hỗn hợp gồm nhiều vũ khí cho đến nay vẫn chưa được phát triển, chẳng hạn máy bay chiến đấu không người lái có sức chịu đựng lâu (long-endurance drones), hoặc một loại máy bay thả bom thế hệ kế tiếp có người lái [next-generation manned bomber, dự định đi vào phục vụ năm 2018, ND], những tên lửa cổ điển tầm xa, và có lẽ cả những tàu vũ khí khó phát hiện (stealthy arsenal ships) chuyên chở các loại vũ khí cực kỳ chính xác.
Trong tình hình có thể gặp phải những trở ngại tài chính, những phản đối có tính cách chính trị, và những bấp bênh chiến lược, Mỹ và đồng minh có thể không hội đủ điều kiện để phát triển những phương án chiến tranh quy ước hoàn toàn hữu hiệu và có tính thuyết phục, để chống lại những khả năng quân sự A2/AD [chống tiếp cận/từ chối địa bàn] của Trung Quốc. Đúng như trong thời Chiến tranh lạnh, chính sách ngăn chặn hiện nay cũng phải một phần dựa vào việc có trong tay những phương án leo thang chiến tranh khả thi. Lời hứa rằng Mỹ sẽ dùng vũ khí hạt nhân để bảo vệ đồng minh vẫn nằm trong cốt lõi của những cam kết phòng thủ của Mỹ. Nhưng lời đe dọa này sẽ mất tính khả tín (credibility) khi kho vũ khí hạt nhân có tầm xa của Trung Quốc ngày một phình ra.
Thay vì chỉ dựa vào viễn ảnh leo thang chiến tranh ở mức độ khốc liệt ngày càng cao, thiết tưởng Mỹ phải cố gắng phát triển những phương án leo thang chiến tranh theo chiều ngang. Trong những phương án này, phương án hiển nhiên nhất sẽ là gia tăng khả năng đáp trả những hành vi xâm lược bằng cách gia nhập một liên minh với các nước bạn và đồng minh nằm trên bờ biển để cắt đường vận chuyển trên biển của Trung Quốc. Thậm chí nếu Bắc Kinh có tin tưởng rằng TQ có thể dùng vũ lực để đạt được một chiến thắng chớp nhoáng, chẳng hạn, trên đảo Đài Loan, hoặc trong Biển Đông Việt Nam, khi đó TQ sẽ phải đối diện với một viễn cảnh là mất khả năng xuất khẩu hàng hóa bằng đường biển hay nhập khẩu năng lượng và các tài nguyên khác mà TQ đang cần đến để giữ cho bộ máy kinh tế tiếp tục chạy đều. Mỹ có thể gia tăng tính khả tín (credibility) của lời đe dọa này bằng cách đầu tư thêm nữa vào các công nghệ chiến tranh dưới biển (undersea warfare technologies), một lãnh vực mà Mỹ đã nắm giữ những lợi thế đáng kể; bằng cách tăng cường hợp tác với hải quân các nước khác như Australia, Ấn Độ, và Nhật Bản; và bằng cách hậu thuẫn những nỗ lực của các quốc gia Đông Nam Á trong việc thu mua những vũ khí mà họ cần đến để bảo vệ vùng trời và vùng biển dọc theo duyên hải của họ.
Tình trạng đáng buồn về lối nói tự mãn
Trong khi tăng cường các nỗ lực quân bình lực lượng với Trung Quốc, hẳn nhiên Mỹ cũng phải tiếp tục làm thân với Trung Quốc. Các quan chức Mỹ phải làm rõ bằng lời nói và việc làm rằng họ đang tìm kiếm một quan hệ hữu nghị tốt đẹp nhất có thể được với Trung Quốc. Nhưng họ phải tự chữa cho mình cái thói thổi phồng những thành tích và những lãnh vực liên quan đến sự đồng thuận và sự thông cảm các vấn đề và các dị biệt của nhau. Lối nói ngoại giao tự mãn này không giúp gì cho việc xoa dịu những cảm thức của Bắc Kinh về các ý đồ của Washington và, thay vì vậy, lối nói này chỉ chuyên chở một bức tranh thiếu trung thực về tình trạng của quan hệ Mỹ-Trung đến dân chúng Mỹ và đến các quốc gia bạn.
Thay vì chỉ biết thoả mãn về khả năng hợp tác giữa hai nước, Mỹ cần đi theo một đường lối tỉnh táo hơn và hướng tới kết quả hơn. Khởi điểm là lãnh vực thương mại. Quan hệ kinh tế song phương vẫn còn có lợi cho hai nước, nhưng gần đây nó đã trở nên ngày càng nghiêng lệch. Bắc Kinh đang sử dụng chính sách tiền tệ và nhiều dạng thức trợ giá khác nhau để đẩy mạnh xuất khẩu. Bắc Kinh gây sức ép buộc các công ty nước ngoài phải chuyển giao công nghệ cho Trung Quốc để được tiếp cận thị trường trong nước của nó. Và Bắc Kinh ngoảnh mặt làm ngơ trong khi các công ty TQ ồ ạt đánh cắp sở hữu trí tuệ nước ngoài. Khác với Nhật Bản trong những thập niên 1970 và 1980, Trung Quốc không những là một đối tác thương mại gây nhiều rắc rối vì Chính phủ TQ sử dụng những biện pháp kiểm soát thương mại để nghiêng cán cân mậu dịch về phía có lợi cho mình; Trung Quốc còn là một đối thủ địa chính trị đang sử dụng các quan hệ thương mại để đạt lợi thế chiến lược.
Số lượng thặng dư mậu dịch song phương vĩ đại của Trung Quốc với Mỹ và việc Bắc Kinh tích lũy các tài sản đặt giá trị trên đồng đôla vì thế là đáng lo ngại vì nhiều lý do vượt lên trên lãnh vực kinh tế. Trong những năm gần đây, các học giả và các quan chức TQ đã đề nghị rằng nếu Washington chống lại những nguyện vọng của Bắc Kinh về các vấn đề khác nhau, như các thương vụ vũ khí bán cho Đài Loan và các cuộc tiếp kiến của Tổng thống Mỹ dành cho Đạt Lai Lạt Ma, Trung Quốc có thể bắt đầu bán đổ những tài sản đó, đẩy cao lãi suất của Mỹ và làm khựng mức tăng trưởng kinh tế của Mỹ. Sự thể một hành động như thế chắc chắn sẽ gây thiệt hại không kém cho kinh tế TQ không đảm bảo rằng trong cơn dầu sôi lửa bỏng của một cuộc khủng hoảng, Bắc Kinh sẽ không bao giờ toan tính dùng đến nó. Cũng không có gì đảm bảo rằng các nhà hoạch định chính sách Mỹ sẽ không bị nao núng vì những đe dọa của TQ mà phải nhượng bộ trong khi lẽ ra họ phải duy trì thái độ cứng rắn. Tắt một câu là: nếu Washington muốn duy trì tự do hành động ở mức lớn nhất có thể, nó không thể cứ tiếp tục nhún nhường như thể quá mang ơn đối với địch thủ địa chính trị chính của mình.
Một sự đánh giá lại đồng Nhân dân tệ sẽ làm giảm bớt tình trạng bất quân bình trên cán cân thương mại Mỹ-Trung, mặc dù phải giảm bao nhiêu, thì đấy là đề tài tranh luận giữa các chuyên gia kinh tế. Dựa trên kinh nghiệm quá khứ, một điều có vẻ chắc chắn là, Trung Quốc sẽ chịu thực hiện những điều chỉnh chính sách đáng kể chỉ khi nào phải đối diện những sức ép đáng kể đến từ bên ngoài. Năm 2005, Bắc Kinh đã cho phép một sự tăng giá của đồng Nhân dân tệ sau khi ông John Snow, Bộ trưởng Tài chính Mỹ lúc bấy giờ, cảnh báo rằng ông sẽ gửi đến Quốc hội Mỹ một báo cáo lên án Trung Quốc dùng thủ đoạn tiền tệ để giành lợi thế thương mại (currency manipulation). Sau đó 5 năm, nhà cầm quyền TQ lại cho phép trị giá đồng Nhân dân tệ nhích lên một chút, việc này đã diễn ra trước khi khai mạc một hội nghị thượng đỉnh G-20 nơi đó các quốc gia khác đang sửa soạn phê bình chính sách hối đoái của Trung Quốc.
Mặc dù cán cân thương mại tổng quát với Trung Quốc là một nguyên nhân cho sự lo ngại, nhưng khu vực công nghệ cao cũng đáng được các nhà làm chính sách Mỹ đặc biệt quan tâm. Kể từ khi chấm dứt Chiến tranh lạnh, Washington đã vật lộn với nan đề là, liệu Mỹ có nên duy trì những biện pháp kiểm soát việc xuất khẩu các công nghệ mà những nước thù địch tiềm năng có thể sử dụng để phát triển những vũ khí tinh vi của họ hay không. Vì mục đích truyền bá toàn cầu tri thức chuyên môn về công nghệ, một số người trong những cộng đồng doanh nghiệp và khoa học cho rằng những biện pháp kiểm soát như thế trong khả năng tốt nhất chỉ là vô ích, và trong khả năng xấu nhất là có hại cho sức cạnh tranh của Mỹ. Tuy nhiên, thậm chí những kẻ hoài nghi cũng nhìn nhận rằng Mỹ có những lợi thế trong các lãnh vực như công nghệ chống ra-đa và công nghệ mã hóa, mà Mỹ vẫn có thể và vẫn phải bảo vệ bằng các biện pháp kiểm soát xuất khẩu đơn phương. Những lo lắng về quyền lực đang gia tăng của Trung Quốc có thể thổi một luồng sinh khí mới vào các cơ chế kiểm soát đa phương. Bởi vì các quốc gia tiên tiến khác tại châu Âu lẫn châu Á đều sợ việc nuôi dưỡng quân đội Trung Quốc và gia tăng tính cạnh tranh của các công nghệ không gian và viễn liên của TQ, hiện nay các nước này có thể sẵn sàng hơn trước trong việc hợp tác hạn chế xuất khẩu một số công nghệ lưỡng dụng (dual-use technologies,) sang Trung Quốc.
Trong khả năng tốt nhất, những biện pháp kiểm soát xuất khẩu chỉ có thể đối phó với một mảng nhỏ trong một vấn đề to lớn hơn nhiều. Mạng lưới gián điệp khoa học và công nghiệp TQ được trải ra đều khắp. Trung Quốc sử dụng những thủ thuật đã có lâu đời như giản dị là hối lộ và đánh cắp, lẫn những phương pháp xi-be tân kỳ và thường hữu hiệu hơn. Và ngoài việc vượt qua tường lửa, Trung Quốc bây giờ có một lựa chọn là chỉ việc đi qua cửa trước bằng cách mua một phần các công ty nước ngoài hay bán cho họ các sản phẩm có thể cho phép Trung Quốc tiếp cận công nghệ và thông tin. Một công ty TQ bán trang bị tổng đài điện thoại đời mới cho một hãng cung cấp dịch vụ điện thoại Mỹ có thể cho phép các cơ quan tình báo Trung Quốc nghe lén các thông tin truyền đạt nhạy cảm của Mỹ. Một cách tương tự, các công ty do Trung Quốc làm chủ có thể phá hoại hay thay đổi các con chip cực nhỏ (microchips) cuối cùng sẽ được cài vào các máy vi tính, các hệ thống truyền thông, và thậm chí trong các vũ khí. Mỹ và các đồng minh công nghệ tiên tiến cần phải theo dõi chặt chẽ hơn nữa đường dây cung cấp công nghệ cao và cần phải điều tiết việc các công ty TQ đầu tư vào nền kinh tế của họ – một số công ty ấy vốn có quan hệ với Bắc Kinh và Quân đội Giải phóng Nhân dân.
Phải giữ vững lập trường cứng rắn
Sự phản đối chủ yếu chống việc rà soát lại chính sách Mỹ theo những đường lối được đề xuất ở đây là, việc này sẽ tạo ra một tiên đoán tự biến thành hiện thực (self-fulfilling prophecy), thêm sức cho bàn tay của những lãnh đạo được coi là cứng rắn của Bắc Kinh trong khi làm mất uy tín của những nhân vật có khuynh hướng tự do và đầu óc cải tổ. Quan niệm cho rằng hiện có những người có thiện chí đang tranh giành quyền lực tại Trung Quốc và cho rằng một đường lối hòa hoãn sẽ có lợi cho họ, thoạt nghe có vẻ hấp dẫn. Nhưng ở thời điểm này, một quan niệm ngược lại ít ra cũng có cùng một mức độ khả tín. Nếu Washington quay trở lại một lập trường mềm dẻo hơn, các thành phần cứng rắn của Bắc Kinh có thể cố gắng lấy điểm. Họ sẽ tranh luận rằng sở dĩ có sự thay đổi về phía Mỹ là do kết quả trực tiếp của những chính sách cứng rắn của họ, bao gồm cả nỗ lực tăng cường quân sự bền vững mà lâu nay họ theo đuổi.
Thật là nguy hiểm khi những nhà làm chính sách Mỹ cố gắng ảnh hưởng lên một cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), một cuộc tranh giành mà họ không thông hiểu đầy đủ. Điều này không có nghĩa là diễn biến chính trị tại Trung Quốc là một vấn đề chúng ta không cần đếm xỉa đến. Không phải thế. Nhưng ảnh hưởng của bất cứ cường quốc nào từ bên ngoài lên hậu quả của tiến trình dân chủ tại Trung Quốc sẽ là gián tiếp và dài hạn. Các nước dân chủ phải tiếp tục hậu thuẫn sự lớn mạnh của xã hội dân sự tại Trung Quốc, cổ vũ luồng tư tưởng tự do nhất từ ngoài vào và từ bên trong Trung Quốc, và lên tiếng bênh vực các nhân vật chịu nguy hiểm để đòi hỏi cải tổ thực sự.
Chí ít hiện nay, đường biểu đồ xu thế (trend lines) tại châu Á đang chuyển động theo những chiều hướng bất lợi cho Mỹ. Bốn năm sau cuộc tan chảy tài chính toàn cầu, Mỹ vẫn còn sa lầy trong suy thoái kinh tế và bước đi khấp khểnh do bế tắc chính trị. Nền kinh tế Trung Quốc cũng có những dấu hiệu tăng trưởng chậm lại, nhưng quốc gia này vẫn tiếp tục trở nên giàu hơn và mạnh hơn trong khi ĐCSTQ vẫn giữ được quyền hành. Nhưng, trong một tương lai không xa, tình hình có thể đảo ngược. Mỹ và các nước dân chủ tiên tiến khác sẽ lấy lại sức bật để ra khỏi những khó khăn hiện nay. Một Trung Quốc do ĐCSTQ lãnh đạo có thể không làm được như vậy. Trung Quốc sẽ phải đối phó những hậu quả kết hợp do nạn tham nhũng vượt ra ngoài vòng kiểm soát, một dân số già nua nhanh chóng, và một mô hình kinh tế được thúc đẩy bằng đầu tư (an investment-driven economic model) mà hầu hết mọi chuyên gia cho là không bền vững. Khả năng cần thiết để Trung Quốc dấn thân vào một cuộc cạnh tranh chiến lược có thể sẽ trở nên suy yếu, ngay cả khi khả năng của Mỹ và đồng minh gia tăng. Thách thức mà các nhà làm chính sách Mỹ đang đối diện là phải tìm ra một phương án tốt nhất để lèo lái quốc gia qua giai đoạn tạm thời đầy bấp bênh và giới hạn.
Những hành vi gần đây của Trung Quốc có thể tỏ ra thuận lợi cho Mỹ trong khía cạnh này. Thái độ hung hăng của Bắc Kinh đã gây lo âu sâu sắc cho các nước láng giềng của Trung Quốc, khiến họ hơn bao giờ hết có khuynh hướng hợp tác với nhau để quân bình lực lượng với anh khổng lồ châu Á. Vì lý do này, các chính phủ khác trong khu vực thường hoan nghênh các tuyên bố mạnh mẽ phát xuất từ Washington trong mấy tháng gần đây. Nhưng họ vẫn còn phân vân không biết Mỹ sẽ có đủ nguồn lực và quyết tâm để hậu thuẫn cho những lời lẽ đầy khí thế của mình hay không. Bất cứ ai được bầu làm Tổng thống vào tháng 11 này cũng sẽ phải dùng những biện pháp để xua tan những ngờ vực nói trên. Phát triển và chi tiêu cho một chiến lược khả tín nhằm chống lại sự tăng cường quân sự của Trung Quốc đồng thời theo đuổi một đường lối cứng rắn trong vấn đề hợp tác kinh tế, cả hai sẽ là quan trọng. Và việc tiếp tục giữ vững lập trường cứng rắn trên các vấn đề nguyên tắc cũng quan trọng không kém. Trong khi vừa hợp tác vừa quân bình lực lượng với Bắc Kinh, Mỹ phải làm bất cứ điều gì có thể làm được để đẩy mạnh tiến trình mà George Kennan [cha đẻ của chính sách bao vây ngăn chặn nếu còn sống] có thể đã gọi là “từng bước làm hòa dịu” quyền lực của Trung Quốc.
ARON L. FRIEDBERG là Giáo sư Khoa Chính trị và các Vấn đề quốc tế tại Trường Woodrow Wilson chuyên về các Vấn đề công cộng và Vấn đề quốc tế thuộc Đại học Princeton và là tác giả cuốn A Contest for Supremacy: China, America, and the Struggle for Mastery in Asia (Một cuộc thi đua giành địa vị siêu cường: Trung Quốc, Mỹ, và cuộc tranh giành quyền bá chủ châu Á). Từ 2003 đến 2005, ông là Phó Trợ lý các Vấn đề an ninh quốc gia tại Văn phòng Phó Tổng thống.
Foreign Affairs
T.N.C.
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN

Chống lại Bắc Kinh

Ông Nguyễn Phú Trọng muốn biến các đồng chí của mình thành những cái máy?

31-8-12
Lê Anh Hùng - Ngày 20/8/2012 vừa qua, tại Hội nghị Toàn quốc về Đổi mới Công tác Cán bộ diễn ra ở Tp HCM, TBT Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu chỉ đạo:
…Phải xây dựng quy hoạch cán bộ. Nhưng mà chỉ xin nhấn với các đồng chí là đường lối nào thì cán bộ ấy. Đường lối cán bộ phải phục vụ cho đường lối chính trị, phải đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của đường lối chính trị. Trước hết dùng cán bộ phải dùng cán bộ nào? Có theo đường lối chính trị, có theo quan điểm đường lối hay không, hay là cứ nói trái, làm trái? Anh đã thông qua cương lĩnh, thông qua đường lối này rồi mà anh cứ nói khác, làm khác thế mà dùng anh vào đây thì nguy hiểm vô cùng, nhất là ở cấp cao. Đây là vấn đề cực kỳ hệ trọng, phải rất tỉnh táo. Nếu lựa chọn sai, bố trí sai thì thưa các đồng chí, “sai một ly đi một dặm đấy”![i]
Kể từ đầu nhiệm kỳ BCHTW Đảng khoá XI (2011 - 2016) đến nay, ông Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần đưa Cương lĩnh của Đảng, “lá bùa hộ mạng” cho sự nghiệp chính trị của mình, ra hù doạ thiên hạ theo kiểu như thế. Với học hàm học vị GS-TS như một trí thức chính hiệu, hẳn nhiên ông thừa hiểu rằng nhận thức là cả một quá trình, những gì hôm qua còn được coi là chân lý thì hôm nay lại có thể không còn đúng nữa; ngược lại, những gì mà hôm nay còn bị coi là sai trái, lố bịch thì ngày mai lại có thể trở thành chân lý, được tung hô. Triết gia chính trị và nhà kinh tế học người Anh John Stuart Mill (1806-1873), nhà tư tưởng hàng đầu về tự do ở thế kỷ 19, đã viết trong tác phẩm bất hủ Bàn về tự do (On Liberty): “Tư tưởng thời đại giờ đây không còn là một cái gì đó ‘bất khả sai lầm’ so với ý kiến cá nhân nữa – mỗi thời đại đều có nhiều quan điểm mà những thời đại sau lại nhìn nhận không chỉ là sai lầm mà còn ngớ ngẩn; chắc chắn là nhiều quan điểm hiện đang phổ biến sẽ bị những thời đại sau bác bỏ, tương tự như nhiều quan điểm từng phổ biến thì nay đang bị bác bỏ.”[ii]
Giữa lúc Việt Nam đang đứng trước bao thử thách cam go cả bên trong lẫn bên ngoài, cả chính trị - kinh tế - xã hội lẫn an ninh - quốc phòng, đất nước thực sự cần những con người dám nghĩ, dám làm chứ không phải những cái máy chỉ biết nhất nhất làm theo “cương lĩnh” hay “đường lối”. Thử hỏi, kể từ khi ra đời năm 1930 cho đến nay, Đảng CSVN đã bao lần phạm phải sai lầm do nhận thức ấu trĩ, duy ý chí và lệch lạc của nó, để rồi bắt cả dân tộc phải trả giá đắt (như cuộc “cải cách ruộng đất” ở miền Bắc từ năm 1953-1956 hay cuộc “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” ở miền Bắc sau năm 1954 và ở miền Nam sau năm 1975)? Nếu mọi “cương lĩnh”, “đường lối” của Đảng đều sáng suốt và đúng đắn thì tại sao Đảng lại phải tiến hành “đổi mới” từ Đại hội VI năm 1986 trong bối cảnh đất nước lâm vào khủng khoảng kinh tế - xã hội trầm trọng; và nếu không có những người “cứ nói trái, làm trái” ở cả miễn Bắc lẫn miền Nam trong những năm đầu thập niên 1980 như lời hù doạ trên đây của ngài TBT thì liệu có cái gọi là “đổi mới” ấy hay không? Trước kia, Đảng từng hô hào “Trí-phú-địa-hào/Đào tận gốc, trốc tận rễ”, coi giới tư sản như “kẻ thù không đội trời chung”, nay lại sẵn sàng đưa các ông chủ vào đứng trong hàng ngũ của mình. Đấy chẳng phải là sự thay đổi hoàn toàn về nhận thức hay sao?
Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm chân lý. Liệu ai dám khẳng định “Cương lĩnh 2011” của Đảng là tuyệt đối đúng đắn, và nó sẽ không phải sửa đổi, bổ sung hay thậm chí bị nhân dân vứt vào sọt rác, nhất là khi mà ngay cả bản thân ngài TBT, người một thời từng đứng đầu cái gọi là “Hội đồng Lý luận Trung ương”, vẫn còn chưa mường tượng ra nổi hình hài của “chủ nghĩa cộng sản”, hay thậm chí “chủ nghĩa xã hội”, ở Việt Nam trong tương lai sẽ như thế nào? Những ai dám “nói khác, làm khác” với “cương lĩnh” và “đường lối” của Đảng thì bị ngài TBT coi là “nguy hiểm vô cùng”, vậy họ gây “nguy hiểm” cho ai, cho Đảng CSVN, cho đất nước này, hay cho cái ghế của ông? Liệu họ có “nguy hiểm” như những người từng mạnh dạn “xé rào” vào đầu thập niên 1980 hay không? Hay họ “nguy hiểm” như vô số đảng viên vẫn âm thầm làm kinh tế tư nhân suốt một thời gian dài cho đến khi Đảng chính thức “cho phép” đảng viên được làm kinh tế tư nhân tại Đại hội X của Đảng năm 2006?
Nhân đây, thiết tưởng cũng cần nhắc lại một câu chuyện đầy ý vị. Ấy là vào năm 1945, khi quân Tưởng đã kéo vào dày đặc ở miền Bắc và quân Pháp bắt đầu đánh phá ở miền Nam, ông Tố Hữu có dịp gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và nêu câu hỏi:
- Thưa Cụ, một bên thì Tây, một bên thì Tàu, bên nào đáng lo hơn?
- Tây cũng không đáng sợ, Tàu cũng không đáng sợ… Đáng sợ nhất là các chú!”[iii]
Và như lịch sử hiện đại của Việt Nam đã cho chúng ta thấy, một khi những người chịu trách nhiệm lớn lao trước Tổ quốc và nhân dân mà lại đặt quyền lợi của cá nhân, của phe nhóm, hay của một đảng phái, lên trên lợi ích dân tộc thì quả thật là “NGUY HIỂM VÔ CÙNG” cho đất nước./.
Lê Anh Hùng 

Hà Nội, 31/8/2012 
Ghi chú:
[i] Từ 4p15 đến 5p05 của bản tin thời sự VTV 19h ngày 20/8/2012.
[ii] Friedrich Hayek: Cuộc đời và tư tưởng, NXB Tri Thức, 6/2007, trang 14. Độc giả có thể tải tác phẩm này về từ đây.
[iii] Hoài Thanh Toàn Tập, tập 4, trang 857.

Vén bức màn EVN - Món quà dâng đảng nhân ngày 2/9.

31-8-12
David Thiên Ngọc (Danlambao)Bức tranh kinh tế VN từ trước giờ dưới sự lãnh đạo thiên tài của đảng CSVN mang một màu sắc vô cùng lãng mạn và bố cục rất sinh động bởi khi nhìn vào ở bất cứ góc độ nào cũng phảng phất những đám sương mờ, những chòm mây lãng đãng... đó là những bức màn che sự thật bên trong góc khuất của bức tranh, nội tình mà đảng và cả tập đoàn chỉ huy kinh tế VN che đậy không muốn cho bất cứ một ai thấu được... từ nhân dân cho đến các nước có quan hệ kinh tế, ngoại giao.
Đến thời điểm năm 2010 trở về sau thì những bức màn sương khói đó dần tan từng khu vực, từng mảng mà những nơi đó không còn khả năng che đậy được nữa. 
Trước hết phải nói lên một điều rằng - Toàn diện bức tranh kinh tế VN là do tập đoàn chóp bu đảng CSVN vẽ nên với một mục đích duy nhất là tạo điều kiện cho các nhóm lợi ích của mình tự do thao túng trong lĩnh vực mà nhóm lợi ích đó quản lý. Ta cũng phải biết rằng tập đoàn lãnh đạo đảng CSVN không phải là một tập thể thống nhất và tất nhiên là đường lối và hành động cũng không nhất quán. Chữ đường lối và hành động ở đây không nhằm vào lợi ích cho quốc gia đại sự, vào tương lai mất còn của đất nước mà ngược lại trong mỗi cá nhân hay bè nhóm trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng đều có một âm mưu, mánh khoé thâm độc riêng để đi đến mục đích là thao túng nền kinh tế quốc gia, thu gom về cho cá nhân và tập đoàn nhóm lợi ích của mình một cách hoàn mỹ và ngoạn mục nhất. 
Ngược về thời gian từ năm 2006 đến năm 2010 ta thấy rằng đảng và nhà nước CSVN chỉ có một sự đồng nhất trong lãnh đạo là dốc hết ngân khố để đổ về cho cho những tập đoàn doanh nghiệp kinh tế quốc doanh một lượng vô cùng lớn xương máu của nhân dân là hơn 310.000 tỉ đồng tương đương với 15 tỉ USD mà không có một chương trình giám sát nào? Một điều mà trên toàn cõi hành tinh này không có lãnh đạo của một nước nào làm như thế được. 
Trở lại bức tranh các tập đoàn kinh tế VN. Nếu như năm 2010 mà tập đoàn Vinashin giật gấu vá vai ở đâu ra để tạm trả khoảng nợ nước ngoài 600 triệu USD đã đáo hạn thì có lẽ bức màn che đậy Vinashin vẫn còn lấp liếm và con tàu vẫn còn chất thêm xương máu của nhân dân để rồi sau đó quá tải cũng phải chìm vào lòng biển. 
Ta cứ thử nhìn sự dối trá của chúng như thế nào? Đây là những bài học vỡ lòng từ khi mọi thành viên chập chững bước chân vào ngưỡng cửa của đảng. 
Tháng 8 năm 2010 con tàu Vinashin tan vỡ và chìm đã mang theo gần 90.000 tỉ đồng tương đương 4, 5 tỉ USD xương máu của toàn dân. Thế nhưng năm 2009 Vinashin báo cáo lãi 750 tỉ, trong lúc đó thực tế lỗ 1.600 tỉ. Ba tháng đầu năm 2010 báo cáo lời 100 tỉ trong khi con tàu đã chìm chỉ còn ló lên mặt nước phầm mũi như con tàu Titanic khi gặp nạn mà thôi. Lừa dối và láo khoét không thể tưởng tượng được. Từ Vinashin lôi kéo theo cả một dây chuyền Vinalines với hàng tỉ USD tan theo bọt nước... rồi lộ ra những màn tội ác, dối lừa của các tập đoàn khác như PetroVN bốc hơi 1800 tỉ đồng, EVN, Sông Đà... và bây giờ là cả một chuỗi ngân hàng, tài chính... lộ mặt một bầy mafia đang thao túng đất nước VN.
Nhìn toàn cảnh chung thì ta thử nghĩ với một hệ thống gọng kềm của đảng CSVN giăng khắp nẻo đất nước, những cặp mắt cú vọ chui vào tận mọi ngóc ngách của xã hội, của từng mảng đời đen trắng của nhân dân thì không một việc gì mà đảng không biết? Câu "Tai vách mạch rừng" đã thấm sâu vào sinh hoạt của mọi người dân từ lâu khi bị bao trùm bởi một trời sợ hãi...
Như vậy thì chỉ một Nguyễn Việt Tiến, Bùi Tiến Dũng (MU-18, Bộ GTVT) cũng không thể làm nên những chuyện động trời như giữa chốn rừng hoang!
Một Phạm Thanh Bình, Dương Chí Dũng không thể nhấn chìm những con tàu to lớn như Vinashi, Vinalines một cách đơn thuần!
Băng Nguyễn Đức Kiên. Lý Xuân Hải, Nguyễn Văn Bình, Hồ Hùng Anh, Nguyễn Đăng Quang, Lê Hùng Dũng... cũng không thể đủ bản lĩnh thao túng được hệ thống ngân hàng, tài chính VN nếu không có những bàn tay nhơ nhớp của những kẻ sâu dân mọt nước đang ngồi ở chóp bu đảng và nhà nước CSVN? Và hiện giờ chúng đang quyết liệt tiêu diệt nhau cũng chỉ vì tranh giành lãnh địa để bủa vây, giăng lưới tóm thâu nguyên khí quốc gia, xương máu của nhân dân mà thôi chứ không phải là trận sống mái giữa hai lằn ranh của bán nước và cứu nguy dân tộc. 
Ở bài này tôi xin đi sâu vào một số điểm mà đúng hơn là tội ác đối với nhân dân của tập đoàn EVN. 
Đây là một tập đoàn được cầm đầu bởi những tay chân của những kẻ đầy quyền lực của đảng CSVN, được trao nhiều ân huệ, nhiều cơ hội để tham nhũng, thao túng kinh tế quốc gia và quản lý cả núi xương máu của nhân dân và luôn với vai trò ban phát ân huệ cho toàn dân, cho xã hội dựa trên lĩnh vực chúng quản lý. 
Với lực lượng hơn 100.000 cán bộ công nhân viên và với tầm hoạt động chi phối toàn xã hội, chi phối cả những tập đoàn kinh tế lớn có tầm vóc sống còn cho đất nước trên mọi lĩnh vực sản xuất, khoa học, nhà máy công trường, hành chính, mọi hoạt động công nghệ thông tin, phục vụ cho kinh tế, chính trị, ngoại giao, quốc phòng và cả đời sống của gần 90 triệu dân VN. 
Một điều đáng nói ở đây là cả một tập đoàn (tham nhũng) quản lý ngành điện này với tầm quan trọng của nó đã đề cập ở trên đã không toàn tâm toàn ý trong lĩnh vực chuyên môn của mình, không tìm tòi phát kiến khoa học để hoàn thiện chuyên ngành đồng thời nổ lực quản lý, khống chế mọi kẽ hở có thể làm rò rỉ, tiêu hao tài sản, tiền bạc của toàn dân mà chúng cố tình tạo ra hàng vạn lỗ hổng để từ đó chúng dễ dàng thò tay vào mà thâu tóm ngân quỹ quốc gia. 
Trước quốc hội, chính phủ, nhà nước hay trong những hội nghị chuyên ngành, lãnh đạo tập đoàn EVN luôn nêu lên những khó khăn cần sự hỗ trợ... nào thiếu vốn, thiếu nguyên vật liệu, thiếu điều kiện và đội ngũ khoa học kỹ thuật vừa thiếu vừa yếu cần sự quan tâm giúp đỡ nhiều hơn nữa từ đảng, chính quyền và các cơ quan ban ngành, tập đoàn kinh tế có liên quan như than khoáng sản VN (TKV), PetroVN (PVN), các tập đoàn xây lắp lớn...v.v... 
Ngược lại thì những vòi bạch tuộc của EVN đã vươn xúc tu đến tận các sân chơi ngoài ngành trái khoáy khác như chứng khoán, bảo hiểm, bất động sản, nhà hàng khách sạn, resort du lịch, viễn thông... riêng về sân chơi viễn thông EVN đã đầu tư 2442 tỉ đồng thời điểm năm 2010. Khi thành lập EVN Telecom lấn sân viễn thông, trong lúc ở lĩnh vực này tập đoàn EVN không có một mảnh kiến thức nào về CNTT, nhưng với tâm lý của nông dân là "Thấy người ta ăn khoai mình xách mai (1 nông cụ) chạy quấy!". 
Chân ướt chân ráo bước vào lĩnh vực viễn thông, lãnh đạo tập đoàn này đã được các chuyên gia tư vấn và khuyến cáo là đầu tư ngoài ngành, và không có đội ngũ khoa học kỹ thuật CNTT do đó nguy cơ dẫn đến rủi ro là rất lớn. Thế nhưng với sự thiếu vắng cái tâm lẫn cái tầm mà các đỉnh cao trí tuệ EVN đã phát biểu rằng "Tận dụng hệ thống đường dây, cột điện sẵn có và đầu tư như vậy nhằm tận dụng tối đa hạ tầng của ngành để phát triển viễn thông..." nhưng không hề quan tâm đến lĩnh vực kỹ thuật cao của CNTT giống như dưới gốc cây cao su, cà phê... nông dân tận dụng đất trống mà "xen canh" thêm bắp, đậu... vậy. 
Cuối cùng với tài cùng trí chỉ là những cây cỏ dại ven sông EVN đã ngã gục trên đường đua trước các cua rơ Vinaphone, Mobiphone, Viettel... với khoản bốc hơi thua lỗ (?) mỗi tháng hàng chục tỉ đồng. Đào Văn Hưng cựu tổng giám đốc EVN chỉ thốt lên "đau xót lắm"!!! như một tiếng chép miệng, chặc lưỡi của loài thạch sùng giữa đêm đông. 
Ngoài đá lấn sân CNTT ra EVN còn đầu tư tràn lan ra các ngành trái khoáy khác như đã nêu trên và tiêu tốn đi hàng chục ngàn tỉ trong lúc đó chính bản thân mình lại thiếu vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh điện(?), hạ tầng cơ sở của ngành điện còn nghèo nàn lạc hậu cần phải hoàn thiện nhiều hơn là một điều không lý giải nổi!
Ta hãy nhìn sơ qua những con số mà kiểm toán tài chính đã nêu của EVN như sau:
-Tính đến ngày 31/12/2010 các khoản đầu tư dài hạn của EVN là 50. 000 tỉ đồng. 
-Năm 2010 lỗ 10. 162 tỉ đồng trong đó chưa tính hơn 28. 500 tỉ đồng lỗ từ chênh lệch tỉ giá. 
-Năm 2011 lỗ 17. 000 tỉ đồng. Lỗ luỹ kế đến 31/12/2011 là 40. 000 tỉ đồng. 
Như vậy nhìn qua những con số trên ta đã thấy một điều hiển nhiên rằng con số lỗ (?) của tập đoàn này tăng theo tốc độ phi mã. Nhưng thật tế với những con số lỗ, thất thoát trên còn chưa dừng lại vì khi so sánh những con số thua lỗ của kiểm toán ghi nhận thì cao gấp 12 lần với con số mà tập đoàn này báo cáo cho chính phủ(?). Một sự lừa dối và che đậy hết sức bỉ ổi đã ăn sâu vào trong máu của chúng. 
Thêm một điều khó hiểu và kỳ lạ là bản phúc trình của tổng thanh tra chính phủ hồi tháng 7/2012 đã làm ngơ trước những con số thật về sự lỗ lã của EVN khi công bố với báo chí. Thực chất thì con số lỗ, thất thoát của EVN không bao giờ có một con số thật một khi nó còn đang tồn tại. Tất cả các tập đoàn kinh tế khác của VN cũng đều như thế. Nếu được soi rọi bằng kính hiển vi thì sẽ được hiện lên cả một ổ vi trùng. Đó là chưa kể ở các chi nhánh xa xôi nhỏ bé mà trong quản lý còn dễ dãi một cách khó hiểu như chi nhánh điện lực Uông Bí (Quảng Ninh) cô Nguyễn Thị Quyên một nhân viên thu ngân tầm thường thôi mà cũng biển thủ được một số tiền nho nhỏ là 18 tỉ đồng (?) thì thật không hiểu nổi, con số tiền mặt cho phép toạ chi cao gấp hàng ngàn lần nguyên tắc tài chính cho phép để dễ bề chiếm đoạt?
So với những tập đoàn KT khác thì số nợ của EVN thật kinh khủng - Lên đến con số 11,5 tỉ USD vào cuối năm 2010 cao gấp 3 lần Vinashin khi sụp đổ (Saigon Times).
Biện pháp nào để bù vào những khoản lỗ trên? - Xin thưa rằng "Móc bụng nhân dân" - Tháng 7/2012 giá điện tăng 5% để thu bù vào những khoảng thất thoát, thua lỗ trên nhiều kiểu làm ăn, tẩu tán, vung tay hoang phí một cách ngông cuồng của tập đoàn này. Cũng như lĩnh vực xăng dầu chỉ trong một thời gian ngắn mà tăng giá đến 4-5 lần để thu bù vào lỗ? Và các hệ luỵ đen tối tiêu cực trong xã hội sẽ đi theo... người gánh chịu sau cùng cũng chỉ là nhân dân. 
Những chiếc tàu như Vinashin, Vinalines... khi đã bể ra những khoảng nợ khổng lồ mà không có cách nào giựt gấu vá vai để bù vào và trụ lại hòng kéo dài tuổi thọ để tiếp tục bòn rút thì đành chịu cho chìm. Còn như EVN thì đã có gần 90 triệu hầu bao của nhân dân VN làm bia đỡ đạn nên chúng vẫn nhởn nhơ một cách vô cảm trên xương máu của nhân dân. 
Ngay khi tăng giá điện 5% trong tháng 7 này cuộc sống nhân dân phần nào ảnh hưởng và không khí ảm đạm, lo âu bao trùm xã hội thế mà ngay lúc này EVN lại xuất quỹ tổ chức cho hơn 400 cán bộ đi tham quan, học hỏi ở nước ngoài ? Thật là một trò hề lố bịch chưa từng thấy. Đồng thời tăng lương, tăng thưởng, tăng các khoảng bộng lộc khác cho cả một bộ máy đồ sộ cồng kểnh EVN mà xem thường mồ hôi nước mắt của nhân dân. 
Nếu không rút ruột của gần 90 triệu nhân dân VN đồng thời dốc ngân khố để bơm vào khoảng trống bị bốc hơi ở EVN thì nguy cơ sụp đổ là không tránh khỏi. Thế nhưng một khi EVN tiêu vong sẽ lôi kéo theo cả một hệ thống kinh tế xã hội mà hệ luỵ của nó vô cùng to lớn khó mà lường được!
Trước tình hình kinh tế, chính trị VN đang đến chương hồi kết thúc của một vở tuồng. Trên mọi mặt trận các đấu sĩ đang tung hết những chiêu thức hạ đẳng nhất hòng hạ gục đối phương mà tất cả trong tư thế trần truồng phơi bày ra hết không dấu diếm một thứ gì. Cho dù phe nào thắng và trụ lại trên vũ đài chính trị VN thì nhân dân cũng trắng răng mà thôi!
Ngày 31/8/2012
David Thiên Ngọc

Quan hệ Việt – Trung: Thực tế bẽ bàng hơn nhiều

31-8-12
Nguyễn Gia Kiểng (Thông Luận) “…Nếu ở Việt Nam có một người không được quyền lên án bất cứ ai là tay sai Trung Quốc thì người đó chính là Lê Đức Anh…”
*
Giờ này, khi mà nhiều người nghĩ và tin rằng Việt Nam chỉ còn một chọn lựa là ra khỏi thế lệ thuộc Trung Quốc và nhanh chóng tiến đến thế đồng minh chiến lược với Hoa Kỳ và các nước dân chủ, chúng ta cần nhận định lại quan hệ Việt Trung một cách chính xác hơn. Lý do là vì sự thực còn phũ phàng hơn nhiều người nghĩ. Và nếu quá khứ có khả năng tiết lộ những gì có thể sẽ tới thì chúng ta phải rất cảnh giác nếu không muốn hụt hẫng một lần nữa.
Cho tới nay, theo cái nhìn của nhiều người, Trung Quốc, sau khi thất bại trong chiến tranh biên giới 1979, đã cố lôi kéo Việt Nam vào quỹ đạo của họ và đã thành công; Đại Hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã là một bước đổi mới đầy hy vọng không may bị khựng lại và đảo ngược; Nguyễn Văn Linh là con người của một cách canh tân dang dở; trong nội bộ ĐCSVN đã có đấu tranh giữa hai phe canh tân thân phương Tây và bảo thủ thân Trung Quốc và sau cùng phe bảo thủ đã thắng v.v. Nhưng sự thực rất khác.
Cái nhìn này không giải thích được một cách thuyết phục tại sao ĐCSVN đã có thể đổi hẳn chính sách đối với Trung Quốc từ thế tử thù sang thế chư hầu ngoan ngoãn mà không gây ra một chấn động lớn, bằng cớ là cho đến nay ít người có thể nói một cách quả quyết ĐCSVN đã quyết định thay đổi thái độ đối với Trung Quốc vào lúc nào, hay tại sao mặc dù Việt Nam hết sức chiều lòng Trung Quốc mà Trung Quốc lại cứ tiếp tục hạ nhục và chèn ép Việt Nam. Lý do là vì nó vẫn nằm trong một logic bình thường theo đó mọi chính quyền trước hết mưu tìm quyền lợi cho đất nước mình, họ có lầm lẫn hay không là chuyện khác. Logic này không đúng trong trường hợp của quan hệ Việt – Trung như chúng ta sẽ thấy.
Nhìn lại quan hệ Việt – Trung đòi hỏi một phân tích thấu đáo những gì đã xảy ra, điều này không dễ vì sự đảo ngược quan hệ Việt Trung đã diễn ra một cách bí mật trong nội bộ của nhóm cầm quyền cao nhất trong đảng cộng sản, nghĩa là bộ chính trị (BCT) và ban bí thư (BBT), ngay cả tuyệt đại bộ phận đảng viên cao cấp cũng không biết. Hơn nữa nó lại chủ yếu được quyết định qua những thảo luận miệng trong tập đoàn lãnh đạo mà các biên bản hoặc không có hoặc vẫn còn được giữ kín. Trong hoàn cảnh đó ta chỉ có thể dựa vào hồi ký của những người trong cuộc cuối đời hoặc có những tâm sự muốn nói ra hoặc có những ân oán giang hồ muốn thanh toán.
Tập Hối Ức và Suy Nghĩ của Trần Quang Cơ là một tài liệu quí. Ít ai có điều kiện để theo dõi biến chuyển trong quan hệ Việt – Trung bằng ông. Ông chủ trì nhóm CP87 một nhóm nghiên cứu chiến lược đối ngoại của đảng vào giai đoạn chuyển hướng này. Ông cũng là thứ trưởng đặc trách vấn đề Campuchia, vấn đề gai góc nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc vào lúc đó. Ông đại diện Việt Nam đàm phán với đại diện Trung Quốc Từ Đôn Tín vào tháng 6-1990, cuộc đàm phán gay go cuối cùng trước khi chính quyền cộng sản Việt Nam thực sự đầu hàng, đúng ra là được Trung Quốc cho phép hàng phục. Quan trọng hơn, Trần Quang Cơ là một trong những người hiếm hoi có kiến thức về thế giới và bang giao quốc tế, một khả năng mà không ai trong số những lãnh tụ cộng sản cao nhất có. Tuy vậy ông Cơ chỉ là một người thừa hành ngoan ngoãn. Nếu đôi khi ông có những tâm sự u uất thì đó cũng chỉ là những trăn trở của một tôi trung. Trần Quang Cơ không có cái nhìn của người lấy quyết định, do đó ông quan tâm trước hết đến những gì thuộc phần nhiệm của mình. Vì vậy trong hồi ký này các sự kiện không được chọn lựa và sắp xếp theo tầm quan trọng đối với chính sách đối ngoại mà theo tầm quan trọng của chúng đối với cá nhân ông. Ông kể khá chi tiết những thảo luận về giải pháp Campuchia và những cuộc phỏng vấn của ông với các báo dù chúng chỉ có một giá trị rất tương đối nếu ta muốn tìm hiểu động cơ và não trạng của những người quyết định chính sách của Việt Nam vào lúc đó. Những điều Trần Quang Cơ kể lại vì vậy cần được hội nhập vào dòng thời sự của cả một giai đọan dài mới có giá trị giải thích và soi sáng.
Trước hết hãy nhìn lại một cách tổng quát quan hệ Việt Trung.
Một cách ngắn gọn có thể nói cho tới cuối thâp niên 1960 ĐCSVN đã giữ được thế cân bằng của một đứa em ngoan giữa anh cả Liên Xô và anh hai Trung Quốc, dù có phần gần với Trung Quốc hơn vì lúc đó Liên Xô không khuyến khích cuộc chiến chinh phục miền Nam mà ĐCSVN coi là mục tiêu sống còn. Năm 1957 Liên Xô còn đề nghị cho cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Nhóm "xét lại chống đảng" chung quanh ông Hoàng Minh Chính đã bị đàn áp thẳng tay vì bị tình nghi là theo đường lối "xét lại" của Khruchev. Tuy vậy sau khi triệt hạ xong nhóm bị coi là thân Liên Xô này, ban lãnh đạo ĐCSVN, đứng đầu là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, vẫn duy trì quan hệ mật thiết với Liên Xô. Thế cân bằng này đã dần dần thay đổi sau khi Brezhnev lên thay Khruchev (tháng 10-1964) và chọn đường lối cứng rắn hơn trong chiến tranh lạnh, trong khi Trung Quốc suy yếu vì những tranh chấp nội bộ mà cao điểm là cuộc "Đại Cách Mạng Văn Hóa" không còn khả năng để yểm trợ đắc lực cuộc "chiến tranh giải phóng miền Nam" của Hà Nội nữa. Sang đầu thập niên 1970, khi xung đột biên giới giữa Trung Quốc và Liên Xô trở thành dữ dội và Trung Quốc rõ ràng tìm cách bắt tay với Hoa Kỳ (Kissinger bí mật sang Bắc Kinh tháng 6-19971 chuẩn bị cho Nixon sang thăm Trung Quốc tháng 2-1972 mà kết quả là Tuyên Ngôn Thượng Hải mở đầu tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước), Hà Nội chọn đứng hẳn về phía Liên Xô, và quan hệ Việt Trung dần dần chuyển từ bạn sang thù. Năm 1976 Đảng Cộng Sản Trung Quốc không gửi phái đoàn tham dự Đại Hội IV của ĐCSVN. Nước Việt Nam thống nhất chọn toàn bộ mô hình tổ chức Đảng và Nhà Nước của Liên Xô. Trung Quốc xúi dục và hỗ trợ chính quyền Khmer Đỏ gây chiến với Việt Nam, Việt Nam đem quân đánh đổ chế độ Pol Pot tháng 12-1978, một tháng sau khi gia nhập khối COMECON và ký xong hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô. Trung Quốc đem quân tấn công tàn phá các tỉnh biên giới phía Bắc để "dạy cho Việt Nam một bài học". Các báo đài của hai bên mạt sát nhau thậm tệ. Trung Quốc bới móc đời tư để bôi bẩn Hồ Chí Minh trong khi Việt Nam lố bịch hóa Mao Trạch Đông như một bạo chúa quê mùa lỗ mãng không tắm, không đánh răng, khạc nhổ bừa bãi và mắc bệnh tim la. Nhân dân hai nuớc được huy động để xuống đường lên án đối phương hàng ngày. Chính quyền CSVN xua đuổi người Việt gốc Hoa.
Năm 1980 hiến pháp Việt Nam được sửa đổi để thêm vào lời nói đầu một đoạn tuyên chiến với Trung Quốc. Trong đại hội đảng V, tháng 3-1982, bản điều lệ của ĐCSVN cũng được sửa đổi với lời nói đầu đề cao cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung như một chiến công lịch sử oanh liệt. Nguyễn Văn Linh, người có công lớn trong cuộc "chiến tranh giải phóng miền Nam" bị loại khỏi bộ chính trị vì lập trường thân Trung Quốc. Nhiều công thần bị loại chỉ vì có tội là người Việt gốc Hoa. Chiến tranh biên giới giữa hai nước vẫn tiếp tục. Thế thù địch đạt đến cực điểm.
Thế rồi, một cách lặng lẽ nhưng nhanh chóng và quả quyết, tình thế đã thay đổi hẳn. Việt Nam trở thành một chư hầu khép nép của Trung Quốc. Thay đổi đã diễn ra như thế nào và vào lúc nào?
Mặc dù tình hữu nghị Việt – Trung đã nhạt dần và hầu như không còn gì vào thời điểm Đại Hội IV tháng 12-1976 nhưng ngòi nổ đã đưa đến xung đột vũ trang giữa hai nước là cuộc chiến Campuchia trong đó cả hai bên đều có những mưu tính không thú nhận. Cuộc chiến khởi đầu tháng 4-1977 khi quân Khmer Đỏ, với sự hỗ trợ và xúi dục của Trung Quốc, tấn công các tỉnh biên giới phía Tây Nam. Cuối năm 1978 Việt Nam đem quân đánh chiếm Campuchia, lập nên chính quyền Heng Samrin – Hun Sen và chỉ rút quân năm 1989 trước áp lực quốc tế, đặc biệt là áp lực Trung Quốc.
Với thời gian người ta có thể nhận thấy là vào thời điểm 1977 chế độ Pol Pot là một gánh nặng cho Trung Quốc vào lúc mà Đặng Tiểu Bình muốn tìm kiếm sự hợp tác của Hoa Kỳ và các nước dân chủ. Chế độ diệt chủng Pol Pot quá hung bạo và bị cả thế giới lên án như một bọn quỉ sứ, nhưng nó cũng là một chư hầu của Trung Quốc và vì thế nó khiến Trung Quốc cũng bị lên án lây. Còn gì tốt hơn cho Trung Quốc là chế độ Pol Pot bị Việt Nam tràn ngập? Trung Quốc bớt được một gánh nặng và Việt Nam, kẻ thù đáng ghét nhất của Trung Quốc, bị thế giới nhìn như một mối nguy cho vùng Đông Nam Á và bị cô lâp. Ngược lại chế độ CSVN cũng muốn đánh gục chính quyền Pol Pot và dựng lên một chính quyền chư hầu tại Campuchia. Lúc đó những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam đang say men chiến thắng. Họ đặt điều kiện để cho phép Mỹ được bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Họ tưởng mình vĩ đại, chủ nghĩa Mác-Lênin nhất định toàn thắng và sắp toàn thắng đến nơi, chủ nghĩa tư bản đang dẫy chết. Ý đồ tái lập Liên Bang Đông Dương như một không gian Việt Nam nới rộng là có thực chứ không phải chỉ là một bịa đặt vu khống của Trung Quốc, dù danh xưng "Liên Bang Đông Dương" không được sử dụng. Trong những năm kế tiếp cuộc xâm lăng Campuchia không ngày nào các báo đài Việt Nam không đưa tin về "ba nước Đông Dương". Một định chế được thành lập và thường được nhắc tới là "Hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông Dương". Cụm từ "ba nước Đông Dương" được đưa vào lời nói đầu của hiến pháp 1980 cùng cụm từ "bọn bá quyền Trung Quốc". Một danh xưng được đề nghị lúc đó là KALAVI (Kampuchia, Lào, Việt Nam) để chỉ thực thể bao gồm ba nước thay cho cụm từ Đông Dương.
Chính sách khôn ngoan cho Việt Nam vào lúc đó là chỉ đẩy lùi và đánh tê liệt quân Khmer Đỏ nhưng không tràn vào chiếm đóng Campuchia. Như thế Trung Quốc sẽ không khạc được khúc xương Khmer Đỏ và sẽ tiếp tục bị thế giới lên án như là quan thày của chế độ diệt chủng gớm ghiếc Pol Pot. Nhưng chính sách này ban lãnh đạo ĐCSVN không hề nghĩ đến. Họ đang say men chiến thắng và tự đặt cho mình sứ mạng cao cả là làm đội tiên phong kiên cường của phong trào cộng sản thế giới do Liên Xô lãnh đạo mà theo họ thắng lợi đã gần kề. Hơn nữa họ cũng tin một cách mù quáng vào sức mạnh của Liên Xô và họ tin Liên Xô thừa sức che chở cho họ. Tháng 11-1978 Việt Nam gia nhập khối COMECON và ký hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô, một tháng sau quân Việt Nam tràn vào Campuchia. Các biến cố kế tiếp nhau theo một kế hoạch. Vào thời điểm này tuy kinh tế Việt Nam đang suy sụp bi đát - trong các tiệm ăn người ta cân từng bát cơm - và Hoa Kỳ không còn sẵn sàng bình thường hóa quan hệ ngoại giao không điều kiện nữa, nhưng niềm tin vào "chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng" vẫn còn nguyên vẹn vì ảnh hưởng của Liên Xô vừa mở rộng một cách ngoạn mục. Trong vòng năm năm, từ 1975 đến 1980, một loạt quốc gia theo nhau rơi vào quỹ đạo Liên Xô -Việt Nam, Lào, Somalia, Yemen, Ethiopia, Granada, Nicaragua, Angola, Afghanistan… Chính sự phình to này đã khiến Liên Xô kiệt quệ và sụp đổ nhanh chóng sau đó nhưng trong nhất thời nó khiến ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam mê cuồng đến mất trí. Trong khi đó Trung Quốc dưới Đặng Tiểu Bình, ngược lại, dồn mọi cố gắng để tranh thủ sự hợp tác của phương Tây và khai thác triệt để thái độ hung hăng đắc thắng của Việt Nam để xuất hiện như một lực lượng bảo vệ hòa bình tối cần thiết tại Đông Nam Á. Đặng Tiểu Bình không ngần ngại tuyên bố "Trung Quốc là NATO ở phương Đông, Việt Nam là Cuba ở phương Đông". Thực tế đã cho thấy Trung Quốc khôn ngoan bao nhiêu thì Việt Nam khờ dại bấy nhiêu. Khi Trung Quốc tấn công Việt Nam tháng 2.1979, trừ Liên Xô và một vài đồng minh, thế giới gần như cho rằng đây là hành động đúng và cần thiết.
Trung Quốc không phải chỉ đã tấn công để "dạy cho Việt Nam một bài học" rồi thôi. Quân Trung Quốc vẫn còn liên tục tấn công vào Việt Nam sau đó. Đã có hai đợt tấn công lớn sau 1980, đợt đầu trong hai tháng 1 và 2.1982, đợt sau trong từ tháng 4 đến tháng 7.1984. Đợt sau cùng này đặc biệt dữ dội, trong đó có trận Lão Sơn (hay Cao Điểm 1509, thuộc huyện Vị Xuyên, Hà Giang). Nhiều tài liệu Trung Quốc nói rằng ba quân đoàn của họ đã đánh lui và gây thiệt hại nặng cho ba sư đoàn Việt Nam trong trận này. Lão Sơn ngày nay đã thuộc về Trung Quốc. Trận này được nhớ tới như là một chiến công lớn của quân đội Trung Quốc. Ngay sau trận đánh tổng bí thư Hồ Diệu Bang đã đến khen thưởng binh sĩ Trung Quốc. Trong Thế Vận Bắc Kinh 2008 trường đua xe đạp được đặt tên là Lão Sơn. Hoàn cảnh Việt Nam lúc đó hoàn toàn tuyệt vọng, kinh tế sụp đổ, sa lầy tại Campuchia và bị cả thế giới lên án. Liên Xô đã không cứu giúp còn khuyên Việt Nam nên hòa với Trung Quốc. Lúc đó chính Liên Xô cũng đang tìm cách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc – các cuộc thương luợng giữa hai bên đã bắt đầu từ năm 1982 - nên không thể có vấn đề Liên Xô giúp Việt Nam đánh nhau với Trung Quốc. Hơn nữa, tình trạng bi đát của Liên Xô ngày càng rõ rệt: kiệt quệ về kinh tế, sa lầy về quân sự tại Afghanistan và chao đảo ngay trong nội bộ. Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Ronald Reagan đang phục hồi một cách ngoạn mục và quả quyết đánh sụp Liên Xô. Reagan thản nhiên gọi Liên Xô là "Đế Quốc Ác Quỷ" (Evil Empire) và thách thức chạy đua võ trang trong khi Liên Xô đã kiệt quệ. Trong các nước vừa lọt vào quỹ đạo Liên Xô các lực lượng chống cộng phản công dữ dội và ngày càng thắng thế. Andropov, kế vị Brezhnev từ tháng 11.1982, nhìn nhận tình trạng nguy ngập và tuyên bố nhu cầu cải tổ toàn diện, điều mà sau đó Gorbachev sẽ làm nhưng cũng không cứu được Liên Xô. Phải hiểu rằng ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã rất hốt hoảng. Cũng cần phải nói lại rằng chiến tranh biên giới hoàn toàn không phải là một chiến thắng cho Việt Nam. Trong cả ba đợt tấn công Việt Nam đã tổn thất hơn hẳn Trung Quốc; trong đợt cuối cùng trận Lão Sơn là một thất bại nặng cho Việt Nam. Cái ảo tưởng chiến thắng chỉ là một sản phẩm tuyên truyền của chính quyền CSVN. Trung Quốc đã không cải chính tuyên truyền này vì nó có tác dụng che giấu sự kiện họ lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam: Việt Nam thắng trận thì không thể mất đất. Nhưng sự thực là Việt Nam đã mất nhiều đất, trong đó có Lão Sơn, Bản Giốc, Nam Quan. Có thể lấy tháng 7.1984 như là thời điểm mà Hà Nội , sau khi thua trận Lão Sơn, không còn sức để phản công và cũng không còn chỗ dựa Liên Xô, đã quyết định cầu hòa với Trung Quốc.
Và sự hàng phục đã diễn ra một cách rất thành khẩn. Ngôn ngữ chống Trung Quốc biến mất trong diễn văn của các lãnh tụ hàng đầu, sau đó trên các báo, đài Việt Nam. Tháng 6.1985, Nguyễn Văn Linh, con người đã thất sủng vì thân Trung Quốc, được đưa trở lại bộ chính trị, để rồi một năm sau trở thành thường trực ban bí thư, nghĩa là nhân vật thứ 2 trong đảng, nhưng thực tế là nhân vật toàn quyền vì Lê Duẩn đã chết, Trường Chinh đã già nua lỗi thời. Lê Đức Thọ, người kiểm soát bộ máy đảng không còn chọn lựa nào khác là ủng hộ Nguyễn Văn Linh. Một năm sau ông Linh trở thành tổng bí thư sau Đại Hội VI. Phải hiểu rằng đây là sự hàng phục chúng ta mới giải thích được thái độ quỵ lụy của ĐCSVN đối với Trung Quốc sau đó.
Còn một chọn lựa khác cho ĐCSVN là quả quyết hòa giải với Hoa Kỳ và sáp lại với các nước dân chủ để được bảo vệ bởi công pháp quốc tế và để phát triển đất nước qua trao đổi và hợp tác với các nước giầu mạnh, nhưng chọn lựa này, vào thời điểm đó và cho tới hết thập niên 1980 không một lãnh tụ cộng sản Việt Nam nào nghĩ đến. Một lý do là vì những vết thương của cuộc chiến và của chính sách tiếp thu miền Nam vẫn còn quá mới, đảng cộng sản đã đi quá xa trong thái độ huênh hoang đắc thắng, nhiều sĩ quan và viên chức miền Nam vẫn còn trong các trại cải tạo, thế giới vẫn còn xúc động vì làn sóng thuyền nhân. Nhưng đây không phải là lý do chính.
Lý do chính là tất cả các lãnh tụ cộng sản lúc đó, không trừ môt ngoại lệ nào, đều tin một cách cuồng nhiệt vào chủ nghĩa Mác-Lênin và thù ghét dân chủ. Trong mọi trường hợp họ chỉ tìm kiếm những giải pháp trong khuôn khổ chủ nghĩa Mác-Lênin. Với logic này một khi không dựa vào Liên Xô được nữa thì chỉ còn một con đường là theo Trung Quốc. Đặc điểm chung của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam là họ rất thiếu văn hóa, họ chỉ biết có một chủ nghĩa Mác-Lênin mà họ học một cách cung kính như một giáo lý chứ không phải một cách có phê phán như một tư tưởng chính trị. Đối với họ chủ nghĩa Mác-Lênin là một tín ngưỡng tuyệt đối. Đã thế họ còn trưởng thành trong chiến tranh và được huấn luyện để không bao giờ thắc mắc về đường lối và mệnh lệnh. Đặc tính của những người thiếu văn hóa là họ thường có những xác quyết chắc nịch không thể thay đổi. Các lãnh tụ cộng sản lúc đó đều coi bảo vệ chủ nghĩa xã hội là bổn phận trước hết và trên hết. Kể cả ông Nguyễn Cơ Thạch, con người hiểu biết và sáng suốt nhất trong các thành viên bộ chính trị. Ông Thạch chỉ chủ trương mở rộng quan hệ với Hoa Kỳ và các nước phương Tây để đừng quá cô lập và bị Trung Quốc bắt chẹt chứ ông không hề nghĩ là phải kết bạn với những nước này. Ông Trần Quang Cơ thuật lại lời phát biểu của ông Thạch trong một cuộc thảo luận tháng 5.1987 của tổ CP87: "Phải thỏa thuận cả với Mỹ, chỉ húc đầu vào một con đường nói chuyện với Trung Quốc là không đúng." Ý kiến này, theo ông Cơ, là một ý kiến động trời vào lúc đó, vì nói tới quan hệ với các nước phương Tây là một điều húy kỵ. Còn chính ông Trần Quang Cơ? Cuốn "Hồi ức và suy nghĩ" của ông có thể khiến người đọc nghĩ rằng ông là một người rất cởi mở, nhưng trong báo cáo trình bộ chính trị vào năm 1993 ông vẫn coi "diễn biến hòa bình", nghĩa là chuyển hóa về dân chủ, như một mối nguy và tới năm 2000, khi viết những dòng cuối cùng của cuốn sách, ông vẫn thấy lập trường này "xem ra chưa phải đã lỗi thời". Quan điểm của ông Cơ đáng chú ý ở chỗ ông không phải là thành viên bộ chính trị hay ban bí thư, ông chỉ là một người thừa hành và một chuyên gia và do đó có thể nói thực những gì mình nghĩ. Chính vì thế mà những gì ông nói phản ánh một cách thực thà "não trạng cộng sản" lúc đó.
Người duy nhất trong số các lãnh đạo cấp cao dám có lập trường đổi mới mạnh dạn, dù muộn màng, là ông Trần Xuân Bách. Ông là thành viên của cả bộ chính trị lẫn ban bí thư và phát biểu lập trường đa nguyên đa đảng trong một bài nói chuyện tại trường đảng Nguyễn Ái Quốc tháng 1 năm 1990. Ngay sau đó ông bị kỷ luật, khai trừ khỏi cả bộ chính trị lẫn ban bí thư và cả trung ương đảng.
Có lẽ chỉ trừ ông Trần Xuân Bách tất cả bộ chính trị đều tán thành đường lối cầu hòa với Trung Quốc. Sự khác nhau chỉ là ở chỗ có những người, như Nguyễn Cơ Thạch, muốn đa dạng hóa quan hệ để đừng bị cô lập và chèn ép; có những người chấp nhận phục tùng Trung Quốc nhưng vẫn còn ấm ức như Võ Chí Công, Võ Văn Kiệt, còn đa số hầu như không có tâm sự nào cả.
Riêng hai ông Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh thì không những chỉ chấp nhận mà còn tỏ ra rất nhiệt tình với lập trường qui phục Trung Quốc không điều kiện. Nguyễn Văn Linh vốn là một người thân Trung Quốc và đã từng bị loại khỏi bộ chính trị trong Đại Hội V, năm 1982. Trong cuộc gặp gỡ với tổng bí thư đảng cộng sản Lào Kaysone Phomvihan tháng 10.1989, Đặng Tiểu Bình trong khi phê phán nặng lời Lê Duẩn đã hết lời ca tụng Nguyễn Văn Linh, nhắc lại năm 1963 đã tổ chức đưa ông Linh sang Bắc Kinh qua ngả Hồng Kông để gặp Đặng. Việc ông trở lại bộ chính trị rồi ngay sau đó lên làm tổng bí thư đánh đấu sự toàn thắng của khuynh hướng cầu hòa với Trung Quốc. Trong tất cả mọi phát biểu của Nguyễn Văn Linh lập trường trước sau như một là phải bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc bằng mọi giá. Câu nói quen thuộc của ông là: "Trung Quốc và Việt Nam là hai nước xã hội chủ nghĩa cùng chống âm mưu của đế quốc Mỹ xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, phải cùng nhau chống đế quốc. Trước hết phải phát triển quan hệ giữa hai nước, các vấn đề khác giải quyết sau". Lê Đức Anh cũng hăng say không kém Nguyễn Văn Linh trong lập trường qui phục Trung Quốc. Nhân vật Lê Đức Anh đặc biệt ở chỗ là ông đã được thăng thưởng rất nhanh chóng trong giai đoạn thù địch với Trung Quốc - từ đại tá lên đại tướng bộ trưởng quốc phòng và ủy viên bộ chính trị trong vài năm - nhưng lại đột ngột trở thành thân Trung Quốc sau khi Nguyễn Văn Linh trở lại cầm quyền, có lẽ là vì hai người đã thân nhau từ giai đoạn cùng chỉ huy cuộc chiến tại miền Nam. Từ khi Nguyễn Văn Linh trở lại Lê Đức Anh hoàn toàn rập khuôn theo ông Linh trong thái độ đối với Trung Quốc. Đôi khi Lê Đức Anh còn tỏ ra thù ghét "đế quốc Mỹ" và ngưỡng mộ Trung Quốc hơn cả Nguyễn Văn Linh. Thí dụ như khi sang Phnom Penh, cùng với Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười, để thuyết phục chính quyền Hun Sen chấp nhận cái mà Hà Nội gọi là "giải pháp Đỏ" ông nói: "Mỹ muốn xóa cộng sản. Nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất, phải tìm đồng minh, đồng minh là Trung Quốc". Nhờ lập trường này và sự hỗ trợ của Nguyễn Văn Linh mà Lê Đức Anh gần như trở thành nhân vật quyền lực thứ nhì trong chế độ. Tuy chỉ là quân nhân và hoàn toàn không biết gì về bang giao quốc tế ông lấn át cả ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch trong chính sách đối ngoại.
Ông Trần Quang Cơ thuật lại rằng trước khi ông đàm phán với đại diện Trung Quốc Lê Đức Anh đã gọi ông cho chỉ thị và ông đã nghe lời khiến ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch phải hỏi gằn một cách bực bội: "Vậy đồng chí theo ý kiến bộ trưởng quốc phòng hay bộ trưởng ngoại giao?". Trong Đại Hội VII năm 1991 tuy phải nhường chức tổng bí thư cho Đỗ Mười nhưng quyền lực của ông cũng ngang ngửa với tổng bí thư. Ông là uỷ viên thường trực bộ chính trị kiêm bí thư trung ương phụ trách ba ngành quốc phòng, ngoại giao và an ninh, đồng thời là chủ tịch nước. Tại sao ông phải ôm cả ngoại giao và an ninh nếu không phải là để đảm bảo rằng chính sách phục tùng Trung Quốc vẫn tiếp tục và để bóp nghẹt những tiếng nói phản đối? Trong dịp đại hội 11 năm trước Lê Đức Anh, dù đã 91 tuổi, bỗng nhiên tái xuất hiện kêu gọi ủng hộ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và lên án ông Nguyễn Phú Trọng là "tay sai Trung Quốc". Khi được một người bạn trong nước báo tin và hỏi ý kiến tôi đã trả lời: "Đừng nên lấy thái độ, nếu ở Việt Nam có một người không được quyền lên án bất cứ ai là tay sai Trung Quốc thì người đó chính là Lê Đức Anh". Sau lưng Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh là những người hoặc ủng hộ tận tình lập trường hàng phục Trung Quốc hoặc chống Mỹ kịch liệt và do đó phải chấp nhận cầu hòa với Trung Quốc.
Tới đây cần giải tỏa một số lấn cấn và hiểu lầm.
Điều đáng lưu ý là cách suy nghĩ rất lạ của những người lãnh đạo cộng sản mà một cách vô tình cuốn hồi ký của Trần Quang Cơ mô tả khá rõ. Họ không lý luận một cách bình thường như người ta có thể hình dung: Trung Quốc muốn gì, sẽ làm gì, có thể làm gì, có những điểm mạnh và điểm yếu nào, có thể giúp gì hay gây thiệt hại nào cho Việt Nam, ngược lại Việt Nam có thể bị đe dọa như thế nào và có thể làm gì v.v. Họ lý luận một cách thuần túy ý thức hệ, theo đó Trung Quốc có hai mặt, một mặt xã hội chủ nghĩa và một mặt bá quyền. Trong bảy năm trời lý luận của ĐCSVN chỉ loanh quanh xem mặt nào quan trọng hơn với kết luận sau cùng là cả hai mặt đều quan trọng. Nghị quyết 13 của bộ chính trị, ngày 25.05.1988, nhấn mạnh là "phải khắc phục những tư tưởng lệch lạc chỉ thấy Trung Quốc là bá quyền mà không thấy Trung Quốc là chủ nghĩa xã hội hay chỉ thấy Trung Quốc là chủ nghĩa xã hội mà không thấy Trung Quốc là bá quyền".Dầu vậy mục tiêu của Đảng vẫn là "phấn đấu bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết sau". Trong các "vấn đề khác" có vấn đề Trường Sa vì hai tháng trước đó, ngày 14.03.1988 hải quân Trung Quốc đã đánh chiếm một số đảo của Việt Nam tại Trường Sa và làm thiệt mạng hơn 60 binh sĩ Việt Nam. Cách lý luận này ngày nay nhìn lại ta có thể cho là dở hơi nhưng nó nói lên não trạng của những người lãnh đạo cộng sản vào lúc đó và nó cũng có hậu quả cụ thể là ĐCSVN chấp nhận trước những thiệt thòi và mất mát đối với Trung Quốc, vì đã chấp nhận "bình thường hóa quan hệ" dù biết trước Trung Quốc có bản chất bá quyền. Theo ông Trần Quang Cơ đây không phải là bình thường hóa quan hệ mà chỉ là lệ thuộc hóa. Vả lại, điều khó tin nhưng có thực, quyền lợi quốc gia không hề là một quan tâm của các lãnh tụ cộng sản vào lúc đó. Theo Trần Quang Cơ chỉ mãi về sau này trong cuộc họp kéo dài ba ngày của bộ chính trị từ 15 đến 17.05.1991, khi chính sách đối với Trung Quốc đã quyết định xong, câu hỏi mới được đặt ra là nên chọn đồng minh theo "lợi ích dân tộc" hay theo ý thức hệ. Và câu trả lời cũng vẫn là phải chọn đồng minh theo ý thức hệ.
Trái với một nhận định khá phổ biến, Nguyễn Văn Linh không phải là con người của của đổi mới mà là con người của Trung Quốc. Đại Hội VI, tháng 12.1986, không phải là đại hội đổi mới và một cơ hội dân chủ hóa không thành mà chỉ là đại hội của chọn lựa thần phục Trung Quốc và chống dân chủ. Cái gọi là "đổi mới" của đại hội này chỉ là rập khuôn theo mô hình "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" của Trung Quốc. Đại Hội VII kế tiếp là đại hội khẳng định dứt khoát sự thần phục đối với Trung Quốc, những phần tử có chút tâm sự lấn cấn với lập trường này, như Trần Xuân Bách và Nguyễn Cơ Thạch, đều bị loại khỏi ban lãnh đạo. Các đại hội VIII và IX chỉ tiếp tục một đường lối đã thành nền nếp. Khuynh hướng đối đầu với Trung Quốc trong đảng chỉ bắt đầu xuất hiện từ đại hội X trở đi và xuất phát từ lớp đảng viên trẻ sau hai thập niên trao đổi với phương Tây, trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội đã trở thành vô nghĩa và nhất là vì Trung Quốc quá xấc xược.
Cũng trái với một nhận định đã được phản ánh qua nhiều bài viết, kể cả của nhiều người dân chủ, Trung Quốc không hề có mưu mô lôi kéo Việt Nam vào quỹ đạo của họ. Thực tế bẽ bàng hơn nhiều. Chính quyền cộng sản Việt Nam đã nài nỉ được phụ thuộc Trung Quốc trong khi Trung Quốc xua đuổi; họ chỉ coi ĐCSVN như một bọn bội bạc và tráo trở bị dồn vào đường cùng. Trần Quang Cơ tiết lộ:"Từ năm 1980 đến năm 1988 ta đã ngót hai mươi lần đề nghị đàm phán, Trung Quốc chỉ làm ngơ". Đúng ra là từ 1984 trở đi, khi Hà Nội thấy là không còn dựa vào Liên Xô được nữa, như chính ông Cơ kể lại trong cuốn hồi ký. Sự khẩn khoản còn gia tăng hơn nữa sau năm 1988. Việt Nam nhiều lần cầu xin Trung Quốc giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội thay thế Liên Xô trong khi Trung Quốc trả lời dứt khoát là họ không có ý định bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Ưu tiên của họ là tranh thủ sự hợp tác và các thị trường của phương Tây để hiện đai hóa và phát triển kinh tế. Một lần đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy nói công khai với quan chức Việt Nam trong buổi tiếp tân của đại sứ quán Ai Cập là "Trung Quốc không chủ trương giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội về mặt đối ngoại". Đây phải là chọn lựa rất quả quyết của Trung Quốc nên một đại sứ mới có thể nói công khai và tự nhiên như vậy. Hà Nội muốn lập lại tình anh em xã hội chủ nghĩa trong khi Trung Quốc nói thẳng là họ chỉ có thể chấp nhận một quan hệ láng giềng "thân nhi bất cận" (thân nhưng không gần). Nhu cầu hòa giải với Trung Quốc còn mạnh đến nỗi nó khiến ban lãnh đạo CSVN thúc đẩy Lào lập quan hệ với Trung Quốc để mong nhờ Lào làm trung gian đàm phán với Trung Quốc. Họ còn cố làm một điều tưởng là vừa lòng Trung Quốc trong khi Trung Quốc không những không muốn mà còn bực mình. Đó là "giải pháp Đỏ" cho Campuchia. Sau khi Gorbachev gợi ý rằng Việt Nam nên cố gắng tìm cách thỏa hiệp với Trung Quốc để giải quyết cuộc xung đột tại Campuchia, ban lãnh đạo Việt Nam bèn nghĩ ra "giải pháp Đỏ", nghĩa là thỏa hiệp giữa hai phe cộng sản Campuchia - Pol Pot do Trung Quốc đỡ đầu và Hun Sen do Việt Nam dựng lên - gạt phăng đi các lực lượng không cộng sản Sihanouk và Son Sann. Họ tưởng như thế sẽ làm hài lòng Trung Quốc, nhưng Trung Quốc lại không chấp nhận. Bắc Kinh muốn một giải pháp do Liên Hiệp Quốc bảo trợ và dành ưu thế cho các lực lượng không cộng sản bởi vì họ đang muốn tranh thủ cảm tình của thế giới và nhất là phương Tây. Ban lãnh đạo Việt Nam thật quá chậm hiểu! Và đồng minh Hun Sen của Hà Nội cũng không chấp nhận "giải pháp Đỏ" này bởi họ nhất quyết không đội trời chung với bọn Khmer Đỏ. Giải pháp này cũng phản bội cả hàng trăm ngàn bộ đội Việt Nam đã chết hoặc bị thương tật tại Campuchia dưới danh nghĩa tiêu diệt bọn diệt chủng Khmer Đỏ. Với một sự ngoan cố khó tưởng tượng, Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh sẽ còn cố gắng áp đặt giải pháp này lên Hun Sen trong một thời gian dài để hy vọng cùng với Hun Sen thuyết phục Trung Quốc, ngay cả sau khi đã chấp nhận giải pháp do Trung Quốc đưa ra tại Thành Đô. Kết quả là Hà Nội thất bại và còn mất luôn cảm tình của chế độ Hun Sen mà họ dựng lên.
Con đường cầu hòa đã rất nhục nhằn cho Hà Nội. Trung Quốc đã đặt ra nhiều điều kiện để chấp nhận nói chuyện về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước và mỗi khi Hà Nội thỏa mãn xong một điều kiện thì họ lại đặt ra một điều kiện mới và Hà Nội lại phải thỏa mãn. Có khi họ chỉ định cả người đại diện Việt Nam để nói chuyện với họ. Tại hội nghị Paris ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin gặp ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Thâm và được trả lời rằng Tiền Kỳ Thâm không có thì giờ để tiếp Nguyễn Cơ Thạch nhưng nếu thứ trưởng Trần Quang Cơ muốn gặp thì đồng ý. Tháng 6.1990, sau sáu năm nhẫn nhục của Hà Nội, khi Trung Quốc cuối cùng chấp nhận gửi Từ Đôn Tín, một trợ lý ngoại trưởng, sang đàm phán với thứ trưởng Trần Quang Cơ, cả Nguyễn Văn Linh lẫn Lê Đức Anh đều đã tiếp riêng đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy trước ngày Từ Đôn Tín sang để tỏ lòng kính trọng với Trung Quốc. Từ Đôn Tín đã đến một cách ngạo nghễ như một sứ giả thiên triều và tuyên bố: "Lần này tôi sang Hà Nội để xem xét nguyện vọng của các đồng chí…". Từ Đôn Tín tự cho phép mắng ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và khi ông Thạch trả lời thì nổi giận bỏ đi. Năm sau khi Lê Đức Anh (chủ tịch nước) và Hồng Hà (trưởng ban đối ngoại trung ương đảng) sang thăm Trung Quốc họ đã xin gặp Từ Đôn Tín để xin lỗi, mặc dù trước đó ông Thạch đã bị gạt ra khỏi bộ chính trị và mất chức bộ trưởng ngoại giao để làm vừa lòng Trung Quốc. Lê Chiêu Thống cũng không đến nỗi khúm núm như thế. Nhục nhã hơn nữa cuộc gặp gỡ Thành Đô. Trần Quang Cơ thuật lại như sau: ngày 28.08.1990 đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy thông báo cho chính quyền Việt Nam biết tổng bí thư Giang Trạch Dân và thủ tướng Lý Bằng muốn gặp tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và thủ tướng Đỗ Mười cùng với cố vấn Phạm Văn Đồng để bàn về quan hệ giữa hai bên ngày 3.9.1990 tại Thành Đô (thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Đây là lệnh triệu tập chứ không phải đề nghị. Trung Quốc ấn định ngày giờ, địa điểm và những ai sang Trung Quốc. Họ cũng buộc hai nhân vật quyền lực nhất chế độ, tổng bí thư đảng cộng sản và thủ tướng, phải bỏ ngày quốc khánh Việt Nam để sang họp. Theo Trần Quang Cơ Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã có mặt tại Thành Đô ngày 02.09.1990. (Theo Trương Đức Duy thì họ đến ngày 3-9). Ba ông này sau đó chấp nhận toàn bộ những gì Giang Trạch Dân và Lý Bằng đưa ra. Nhục nhằn như vậy chỉ vì Hà Nội muốn được Bắc Kinh nhận làm đàn em trong khi Bắc Kinh không cần gì cả. Và mối "quan hệ bình thường" này sẽ còn kéo dài về sau. Trong Đại Hội X, năm 2001, để lật đổ tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh buộc tội Phiêu là đã dâng đất và độc đoán, khi sang Trung Quốc đàm phán về biên giới không đem theo ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm để dễ "thậm thụt". Nguyễn Chí Trung, trợ lý của Lê Khả Phiêu, biện hộ cho Phiêu như sau: Nguyễn Mạnh Cầm không đi vì thành phần phái đoàn Việt Nam do Trung Quốc quyết định.
Chưa hết, hiện nay mọi người Việt Nam đều phẫn nộ và thế giới cũng phẫn nộ vì cái lưỡi bò liếm hết Biển Đông của Trung Quốc. Nhưng cái lưỡi bò đó do đâu mà có? Đó là vì Bắc Kinh viện cớ họ có một số đảo ở Trường Sa. Đó là những đảo mà họ đã đánh chiếm của Việt Nam năm 1988 sau khi giết hại 64 binh sĩ Việt Nam. Câu hỏi mà nhiều người đặt ra là tại sao Trung Quốc không nhân dịp chiếm luôn tất cả mọi đảo của Việt Nam tại Trường Sa mà lại chỉ chiếm một vài đảo đá? Câu trả lời là họ không thể chiếm hết. Thực ra nếu chính quyền CSVN không muốn họ cũng không thể chiếm một hòn đảo nào cả. Trường Sa nằm ngoài tầm hoạt động của không quân Trung Quốc và trong tầm hoạt động của không quân Việt Nam. Các tầu chiến của Trung Quốc lúc đó cũng còn khá sơ sài và chưa đủ sức đương đầu với máy bay chiến đấu. Chính quyền CSVN hoàn toàn có thể phản công lấy lại các đảo đã mất và đuổi tàu chiến Trung Quốc ra khỏi Trường Sa nếu muốn nhưng họ đã không làm. Họ đang muốn cầu hòa với Trung Quốc bằng mọi giá.
Những ai nghi ngờ điều này có thể nhìn những gì xảy ra ngay sau đó. Ngày 14.03.1988 Trung Quốc đánh Trường Sa. Ban lãnh đạo CSVN đã im lặng. Báo chí của Đảng và Nhà Nước loan tin qua loa rồi thôi. Hai tháng sau, ngày 25.05.1988 bộ chính trị họp và ra nghị quyết 13 khẳng định phải "phấn đấu bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết sau". Tháng 9, hiến pháp Việt Nam được tu chỉnh để bỏ đoạn coi Trung Quốc là kẻ thù. Trung Quốc không còn là kẻ thù sau khi đã đánh chiếm Trường Sa!
Chúng ta đều phẫn nộ vì sự thần phục quá đáng của Việt Nam đối với Trung Quốc nhưng ít ai ý thức rằng để được thần phục Trung Quốc đảng CSVN đã bắt nước ta trả giá rất đắt.
Nhìn lại giai đoạn lịch sử vừa qua cũng chua xót như nhìn lại giai đoạn nhà Nguyễn bị quân Pháp chinh phục hồi thế kỷ 19. Cũng bám lấy Trung Quốc và một chủ nghĩa đã lỗi thời để từ chối một thay đổi vừa đúng vừa bắt buộc. Chủ nghĩa lỗi thời lần này là chủ nghĩa Mác-Lênin thay vì Khổng Giáo. Chính trị Việt Nam vẫn giữ nguyên sự mù quáng sau một thế kỷ. Điểm khác nhau là ngày trước triều Nguyễn bám lấy Trung Quốc để chống một kẻ thù, lần này Đảng Cộng Sản bám lấy chính kẻ thù.
Người ta khó có thể không đặt những câu hỏi tương tự trong hai trường hợp.
Nếu ở thế kỷ 19 nhà Nguyễn thay vì bám lấy Khổng Giáo và ngoan cố làm chư hầu Trung Quốc mạnh dạn mở cửa ra với phương Tây? 
Nếu sau năm 1975 hay vào năm 1984 thay vì bám lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và chọn làm đàn em Liên Xô rồi hàng phục Trung Quốc đảng cộng sản chọn dứt khoát chuyển hóa về dân chủ?
Gần hơn và khẩn cấp hơn, trong lúc này khi mà khả năng đất nước tách khỏi quỹ đạo Trung Quốc và ra khỏi bế tắc khá lớn nhưng chưa chắc chắn, là những câu hỏi nhức nhối:
Tại sao một thay đổi đột ngột và toàn diện như thế trong chính sách đối với Trung Quốc, từ chống đối hung hăng sang thần phục ngoan ngoãn, lại có thể được quyết định và thực hiện bởi một vài người lãnh đạo thiển cận mà không bị chống đối? Như vậy có thể nói tới một thành phần sáng suốt trong ĐCSVN không?
Và tại sao các trí thức Việt Nam cũng chỉ nhận ra thay đổi này khi nó đã hoàn tất? Phải đánh giá thế nào trình độ nhận thức chính trị của trí thức Việt Nam?
Sẽ là một sai lầm lớn nếu chúng ta tránh né những câu hỏi này. Vì rất có thể chính quyền cộng sản lại sắp đưa đất nước vào ngõ cụt một lần nữa.
Nguyễn Gia Kiểng.
(Tháng 8/2012)