Saturday 11 May 2013

Bắc Thuộc Lần Thứ 5…

5-2013

Mai Thanh Truyết 2013/05/10

Kể từ khi tiến chiếm miền Nam của cs Bắc Việt ngày 30/4/1975, chúng ta ngày càng thấy lộ rõ tính nô lệ Trung cộng (TC) của những người lãnh đạo đất nước. Cuộc chiến “có tiếng súng” nổ ra ở biên giới Việt-Trung ngày 17 tháng 2 năm 1979 chỉ là sự khởi đầu cho tiến trình Bắc thuộc lần thứ năm của TC. Cuộc chiến không phải chấp dứt 10 ngày sau đó, mà vẫn tiếp tục day dẳn dọc theo biên giới mãi cho đến năm 1988 qua sự quy phục hoàn toàn của cs Bắc Việt khi TC tiến chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam.


Và cuộc chiến không tiếng súng bắt đầu.
Và hiệp ước biên giới được hai bên ký kiết (theo lịnh của TC) như sau:
- Cột mốc biên giới số 1116 đã được chính thức cấm vào phía Nam của Ải Nam Quan và cách ải 280 m;
- Thác Bản Giốc trở thành một trung tâm du lịch do TC quản lý;
- Quan trọng hơn cả là sự hiện diện của người thiểu số Tày dọc theo chiều dài biên giới Việt-Trung tới tận tỉnh Quảng Đông. Người Tày có khuynh hướng thân TC và đã được TC khuyến dụ như là một đạo quân thứ năm của TC một khi có chiến tranh xảy ra.

Thật ra, những sự kiện vừa nêu trên có thể nói là kết quả của những mật đàm từ trước, Hội nghị Thành Đô năm ngày 3 và 4 tháng 9 năm1990.
Trong quá trình lịch sử, chúng ta thấy rất rõ tham vọng chiếm đóng Việt Nam của người Hán đã xảy ra hàng ngàn năm trước và VN chịu bốn lần ách đô hộ. Và hôm nay, dưới cuộc chiến không tiếng súng, lại thêm một lần nữa, cuộc đô hộ mới đang xảy ra, thể hiện quyết định của Hội nghị Thành Đô trên.
Tại nơi nầy, Việt Nam có Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam thời bấy giờ, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên Trung Cộng có Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng. Hai bên ký kết Kỷ yếu hội nghị đồng thuận bình thường hóa quan hệ hai nước. Cuộc gặp mặt bí mật này không được công bố trong nước cho tới khi “bị” bật mí vàoi những ngày đầu năm 2013..

Ngày 5/11/1991, Đỗ Mười, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam và Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến Trung Cộng. Ngày 7/11/1991, hiệp định mậu dịch Trung - Việt và hiệp định tạm thời về việc xử lý công việc biên giới hai nước đã được ký tại Nhà khách quốc gia Điếu Ngư Đài, Bắc Kinh.
Tiếp theo sau, dưới thời Tổng Bí thư cs Lê Khả Phiêu, Việt Nam ký hai Hiệp định Biên giới trên bộ và phân chia vịnh Bắc Bộ với Trung Cộng. Theo báo chí “chiều phải” của Việt Nam, Việt Nam có quan hệ mật thiết "môi hở răng lạnh" với Trung Cộng. Hai nước đều do hai Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Cuối cùng, công cuộc thực hiện Bắc thuộc hoàn toàn bằng cách biến Việt Nam thành Nam Việt, một tỉnh theo quy chế tự trị phía Nam thuộc Trung Cộng…và ngôi sao thứ năm trên lá cờ TC đã xuất hiện trong các cuộc giao tiếp hòa đàm giữa TC và VN từ năm 2011…để chờ ngày chính thức công bố tự trị vào năm 2020? (Lá cờ TC với 5 ngôi sao xuất hiện lần đầu tiên truyền hình Việt Nam vào ngày 11/10/2011 nhân chuyến viếng thăm TC của Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư cs VN để xác định “16 chữ vàng” một lần nữa là: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”).

Chính quan hệ mật thiết môi hở răng lạnh của hai đảng cộng sản cộng thêm sự hèn yếu của cs Bắc Việt khiến cho tiến trình Bắc thuộc ngày càng hiện rõ thêm qua nhiều chỉ dấu từ đó đến nay:


Tiến trình Bắc thuộc lần thứ 5:
- Di dân Trung Hoa vào Việt Nam
Trước năm 2008, người Trung Hoa khi vào Việt Nam được miễn nhiễm visa (hộ chiếu) và có thể di chuyển tự do trong phạm vi miền Bắc mà thôi. Cuối năm 1980, Thủ tướng cs Nguyễn Tấn Dũng lại miễn hộ chiếu và nới rộng vùng di chuyển của ngưới Tàu đến tận Cà Mau. Quyết định nầy chính là điểm mấu chốt và là điểm khởi đầu thực sự trong âm mưu Hán hóa Việt Nam của TC.
Có thể nói hiện nay, sự hiện diện của người Tàu trên khắp hang cùng ngõ hẹp của đất nước. Trong hơn 65 Khu chế xuất, Khu công nghiệp tập trung, không đâu là không thấy công nhân, quản đốc và chủ nhân người Hoa, trong lúc người lao động Việt Nam khắp nơi phải chịu cảnh thất nghiệp! Trong các nhà máy sản xuất có tính cách quốc phòng như nhà máy phát điện nhà máy gang thép, sản xuất hóa chất công nghiệp…đầu đâu cũng có chủ nhân và công nhân người Tàu…
Ngoài 9 tỉnh địa đầu hầu như chịu ảnh hưởng của người Tàu, đường xá mang tên Tàu, hàng quán, chợ búa mang tên Tàu, thậm chí cung cách trang hoàng những ngày Tết cũng đậm nét Tàu như treo lồng đèn đỏ dọc theo các đường phố chính, chưng bày hàng hóa thực phẩm Tàu…
Trên 306.000 hecta đất cho Tàu thuê mướn trong 50 năm với giá rẻ mạt, chiếm toàn những vị trí chiến lược trọng yếu ở Bắc Việt, như căn cứ Tam Điệp là nơi Bộ Chính trị cs VN “chạy trốn” trong giai đoạn chiến tranh năm 1979!

- Đồng hóa tiệm tiến các dân tộc thiểu số miền Cao nguyên Trung phần
Hiện tại, TC đã phối hợp một cách gián tiếp với người Chăm và người thiểu số ở cao nguyên Bolloven bên Lào, Cambodia và nhập nhằng tóm gọn các dân tộc Chăm và Thượng làm một, dưới danh nghĩa Fulro/Chăm để khích động nhu cầu dành lại chủ quyền của vương quốc Champa do một nhóm người Chăm bên Pháp dưới quyền lãnh đạo của một Tiến sĩ người Chăm cổ súy. Nhóm nầy cũng đã được hỗ trợ của thực dân Pháp vốn đã có nhiều quyền lợi tại vùng cao nguyên nầy hồi thời thuộc địa. Cũng cần nên biết thêm, người Thượng ở vùng cao nguyên hiện tại cũng đã được các hội thiện nguyên và tôn giáo Hoa Kỳ yễm trợ dưới danh nghĩa DEGA.
Theo tin tức được loan tải trên mạng lưới toàn cầu, họ đã hình thành tổ chức The Cham National Federation of Cambodia (CNFC) và đã được Liên Hiệp QUốc công nhận qua Department of Economic and Social Affairs (DESA) dưới quy chế tham mưu (consultative status) kề từ năm 2009.
Một tổ chức thứ hai là The Overseas Cham Unity Organization (OCUO) cũng đang xúc tiến đưa hồ sơ lên LHQ và Thụy Điển để ghi danh xin thành lập Chính phủ lưu vong Chăm (The Cham National Government In Exile). Chính phủ nầy sẽ ở ngoài lãnh thổ truyền thống của Champa là miền Trung VN, mục đích nhằm duy trì sự hiện hữu của chính phủ hoàng gia Champa trước đây. Cũng theo dự định, chính phủ nầy sẽ phác thảo bản hiến pháp và triệu tập Đại hội để bầu ra Thủ tướng và các Bộ trưởng vào nội các.
Qua các tin tức trên, chúng ta thấy rõ ràng là phải có bàn tay lông lá của TC mới thực hiện được những dự tính thành lập chính phủ lưu vong của người Chăm. Theo một nguồn tin đáng tin cậy, chính phủ lưu vong ban đầu sẽ đặt trụ sở tại đảo Hải Nam (TC), nơi có một cộng đồng thiểu số người Chăm nay gọi là Utsat cư ngụ. Cộng đồng người Chăm nầy theo sử liệu đã sang tị nạn và định cư tại đây vào thời Lưu Kỳ Tông, một ông vua tiếm ngôi không phải gốc Chăm đã có một thời áp dụng chính sách cai trị hà khắc với dân tộc Chăm năm 988.
Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó, dự định trên đã được hủy bỏ vì muốn tránh sự phản kháng của các thành viên LHQ khác, văn phòng chính phủ lưu vong lấy Thụy Điển làm văn phòng tạm là P.O. Bax 122, SE-33523, Gnosjo, vì tại nơi nầy, cũng có một tiến sĩ người Chăm định cư nhằm tạo danh nghĩa để gây áp lực với cs Bắc Việt một khi cần thiết. Và một trụ sở khác của chính phủ lấy Cambodia làm căn cứ địa đặt tại Phnom Penh, P.O. Box 1635 Phnom Peenh 12000. (Cơ sở nầy một lần nữa bị bại lộ do đó TC phải dẹp bỏ vào năm 2012).
Sau cùng, khi “Ông Thầy đỡ đầu” người Pháp của vị tiến sĩ Chăm đan cử ở phần đầu qua đời, vị tiến sĩ nầy đi tìm chỗ dựa mới là TC và chuyển trục hoạt động về Malaysia. Nơi đây ông ta đã tổ chức một viện nghiên cứu về dân tộc Chăm, và có nhiều buổi nói chuyện về sự hình thành dân tộc Champa do một đại học ở TC đài thọ.
Vậy, câu hỏi được đặt ra là: Trung Cộng giúp người Chăm hải ngoại nhằm mục đích gì?
Câu trả lời giản dị sẽ là TC muốn hoàn toàn khống chế VN trong lãnh vực chính trị-kinh tế-quân sự qua việc kiểm soát vùng cao nguyên Trung phần VN. Nắm được cao nguyên nầy, TC sẽ biến thành một vùng lệ thuộc như miền đất Tây Tạng năm 1959 và Tân Cương 1960. Đã nắm được yết hầu của VN rồi mặc nhiên TC có toàn khả năng khống chế lãnh đạo hiện tại của cs Bắc Việt trong mọi tình huống.
Mặt khác, nguy hiểm hơn nữa là sự hiện diện của hàng chục ngàn người Tàu dưới dạng công nhân, hay nhân viên tình bào (?) tại hai địa điểm khai thác Bauxite là Nhân Cơ ở Đăc Nông và Tân Rai ở Lâm Đồng. Sự hiện diện nầy, ngoài các yếu tố kinh tế, và quân sự, còn là một chiến lược đồng hóa người địa phương và thiểu số bằng những cuộc hôn nhân dị chủng để…vài chục năm sau, những nơi nầy sẽ có những người “thiểu số mới”….đứng lên đòi tự trị theo tinh thần của Nghị quyết Dân tộc bản địa của LHQ?

- Ảnh hưởng về Văn hóa và Giáo dục
Trung Cộng cũng có âm mưu gây ảnh hưởng về văn hóa. Điều nầy đã bàng bạc thể hiện qua nhiều lể hội có tính cách văn hóa xen lẫn y phục, lời ca, điệu múa Trung Hoa. Cung cách cấu trúc, bày trí các vỡ kịch cũng đầy máu sắc và kịch tính Tàu. Những ảnh hưởng trên thể hiện ra sau khi bình thường hóa quan hệ, cho phép các loại hình văn hóa của Trung Cộng được xuất bản rộng rãi tại Việt Nam. Rất nhiều các loại phim TC được dịch và trình chiếu tại các đài truyền hình Trung Ương và địa phương ở Việt Nam.
Một khía cạnh quan trọng khác là cách đây hơn 3 năm, TC lại thành lập một Cục giáo dục tiếng Hoa cho người ngoại quốc. Họ đã đào tạo giáo viên sinh ngữ từ bậc tiểu học. Từ năm 2010, họ đã bắt đầu cung cấp giáo viên qua việt Nam để giảng dảy tiếng quan thoại. Đây cũng là một âm mưu lâu dài nhằm đem tiếng Hoa vào trong hệ thống giáo dục VN, chuẩn bị cho công cuộc Bắc thuôc toàn diện.

- Xuất nhập cảng làm tê liệt các ngành sản xuất VN bằng cách tung hàng hóa với giá rẻ mạt.
Trong một chuyến viếng thăm TC của Tổng Bí thư cs Nông Đức Mạnh tháng 5/2008, hai bên quyết tâm và “nhất trí” phát triển hai chiều theo “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”.
Kể từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ kinh tế thương mại Trung – Việt được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Kim ngạch thương mại giữa hai nước từ hơn 30 triệu USD năm 1991 lên 22,5 tỷ USD năm 2009, tăng gấp gần 700 lần. TC đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam. Lợi ích thương mại song phương mang lại cho hai nước là điều dễ dàng nhìn thấy. Nhưng cùng với thương mại song phương liên tục tăng trưởng, vấn đề mất cân bằng trong thương mại giữa hai nước đã ngày càng bộc lộ. Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề nhập siêu trong thương mại với TC.

Cũng cần nên nói thêm là TC còn xuất sang Việt Nam nhiều hàng hóa trong lĩnh vực thực phẩm, tiêu dùng với nhiều sản phẩm có tẩm, ướp, bảo quản, chế biến, sản xuất bằng các loại hóa chất độc hại, bằng công nghệ gây hại mà thị trường TC đã tẩy chay khi phanh phui ra các vụ bê bối thực phẩm như các loại hoa quả, thực phẩm, xí muội, ô mai, nước tương, sữa, trứng gà..., ngoài ra còn có đồ chơi trẻ em có chứa chì, dày dép, đồ điện tử độc hại, bạo lực, kích dục, chứa chất nổ, dễ gây thương tích, ảnh hưởng đến nòi giống, sinh sản....
TC cũng xuất sang Việt Nam các giống cây trồng, vật nuôi có nguy cơ gây hại đến các giống loài bản địa, gây hại đến nông nghiệp của nước sở tại như ốc bươu vàng, đỉa trâu, sâu, nhộng, trùng cho chim cảnh, rùa tai đỏ và một số giống vật nuôi nguy hiểm khác.... điều đáng lưu ý là những sản phẩm này tràn lan trên thị trường Việt Nam, không thể kiểm soát được và người tiêu dùng Việt Nam đang dùng hàng ngày do giá rẻ và không phân biệt được thật giả, phẩm chất hay xuất xứ.
Về phần Việt Nam, hàng hóa xuất cảng sang TC của Việt Nam chánh yếu là dầu thô (năm 2009 xuất trên 8 triệu tấn dầu thô), than đá và một số nông sản và hầu hết các loại rau đậu, ngô khoaii…Đối lại VN nhập cảng từ TC các mặt hàng như: máy móc thiết bị, thép, sản phẩm hóa chất, thiết bị vận tải, bông vải, máy móc cho kỹ nghệ dệt, da giày, phân bón và sản phẩm, máy móc dùng trong nông nghiệp, và hàng tiêu dùng. Chì tính cho năm 2009, riêng hàng nhập khẩu từ TC chiếm tới 80% tổng lượng nhập khẩu của Việt Nam.
Điểm sau cùng cũng cần nêu ra đây là vấn đề trúng thầu của các doanh nghiệp TC trong các dự án có tầm vóc quốc gia của Việt Nam mà báo chí trong nước vẫn đưa lên gần đây. Đa số các dự án lớn đấu thầu công khai thì đều lọt vào tay nhà thầu TC do giá đấu thầu của họ rất rẻ. Vấn đề tham gia của TC trong các dự án nhạy cảm, như trồng rừng ở biên giới, dự bán Bauxite trên cao nguyên Trung phần Việt Nam, các dự án Nhiệt điện ở khắp nơi từ Hải Phòng cho đến Cà Mau. Nguồn vốn cho vay của TC ngày càng tăng chiếm hầu hết tổng lượng vốn vay của Việt Nam, dự báo cho một sự lệ thuộc hoàn toàn của nền kinh tế Việt Nam vào TC.
Tóm lại, TC dùng đủ mọi thủ đoạn để xuất cảng hàng hóa, vật dụng, thực phẩm chứa hóa chất độc hại nhằm…ngoài việc làm tê liệt kinh tế VN bằng cách triệt tiêu các kỹ nghệ nội địa của VN, còn làm hủy diệt sức đề kháng chống ngoại xâm của các thế hệ thanh niên sau nầy của VN qua kinh nghiệm ngàn năm giữ nước của dân tộc Việt.
Thay lời kết
Đã hơn 38 năm qua từ ngày lìa xa Đất và Nước, hơn lúc nào hết, âm mưu Bắc thuộc lần thứ 5 của Trung Cộng lại hiện rõ trong lúc nầy. Chúng ta còn nhớ, ngay sau khi Liên Sô sụp đổ năm 1991, CS Bắc Việt mới quay về thuần phục TC.
Và kể từ đó, trước mặt TC, đảng CSVN mới cam tâm ký hai hiệp ước nhượng đất và nhượng biển cho Trung Cộng. Thứ nhất là “Hiệp ước về biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Trung Cộng” ngày 30-12-1999 (mất ải Nam Quan và thác Bản Giốc), và thứ hai là “Hiệp ước phân định lãnh hải” ngày 25-12-2000 (mất khoảng 10,000 Km2 mặt biển vùng Vịnh Bắc Việt).
Câu chuyện Tam Sa gồm Hoàng Sa và một số đảo Trường Sa cũng chỉ là kết luận “tất yếu” của tiến trình dâng đất và dâng biển cho TC mà thôi.
Qua những sự kiện vừa liệt kê trên đây, chúng ta thấy rõ ràng ÂM MƯU THÔN TÍNH Việt Nam của TC cũng như lý tính thuần phục của đảng cs Việt Nam hiện tại.
Đất Nước là Đất Nước của chung, của cả dân tộc. Từ người lãnh đạo quản lý Đất Nước cho đến người dân cùng đinh trong xã hội cần phải được dự phần và chia xẻ trách nhiệm chứ đâu có phải là độc quyền của đảng.

Tóm lại, cho đến ngày hôm nay, có thể nói qua những phân tích trên đây, mọi hành xử của đảng CS Bắc Việt đều do CS TC điều khiển từ xa. Việt Nam hoàn toàn không có khả năng quyết định vận mệnh của đất nước mình nếu không có sự “góp ý” của TC.
Hiện tại, 16 chữ vàng và 4 tốt trên đã được Trung Tướng CS Ngô Xuân Lịch, Chủ nhiệm Tổng Cục Chính trị cùng phái đoàn 11 tướng lãnh cao cấp khác cam kết và xác định thêm một lần nữa trước Thái thú Tập Cận Bình, Chủ tịch nước Trung Hoa là:”Quân đội hai nước sẽ gương mẫu thực hiện thỏa thuận giữa hai Đảng bằng đối thoại”.
Chưa bao giờ đất nước Việt có một tập đoàn lãnh đạo hèn với giặc và ác với dân như hiện tại!
Nhìn lại lịch sử trong quá khứ, vào năm 1428, Vua Lê Lợi lên ngôi sau 10 năm kháng chiến đau thương và gian khổ để:
“Đại cáo Bình Ngô lưng cung nỏ,
Giang sơn thu lại chỉ mười năm”.
Đó là giang sơn Đại Việt thời xưa!
Và vào thời cận đại, Cụ Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du để phục quốc đã phải thốt lên:” Phát cây bụi lá gai góc, khó nhọc để mở ra thế giới này, không phải là tay chân của hàng nghìn vạn người chúng ta chăng? Sớm chuyên chở, chiều chuyên chở đất cát để lấp kín khe núi kia, không phải là máu mỡ mồ hôi của tổ tiên hàng nghìn vạn người chúng ta chăng? Tổ tiên ta đem nước để lại cho con cháu. Ta là con cháu, ta nhận nước ở tổ tiên ta. Nước vốn là gia tài của dân ta”.
Và Cụ viết tiếp:”Sau khi đã duy tân rồi thì dân trí sẽ được mở mang, dân khí sẽ lớn mạnh, dân quyền sẽ phát đạt, vận mệnh nước ta do dân ta nắm giữ. Giữa đô thành, nước ta đặt một toà nghị viện lớn. Bao nhiêu việc chính trị đều do công chúng quyết định. Thượng nghị viện phải đợi trung nghị viện đồng ý, trung nghị viện phải đợi hạ nghị viện đồng ý mới được thi hành. Hạ nghị viện là nơi đa số dân chúng có quyền tài phán việc của trung nghị viện và thượng nghị viện. Phàm là dân nước ta, không cứ sang hèn, giàu nghèo, lớn bé đều có quyền bỏ phiếu bầu cử. Trên là vua nên để hay truất, dưới là quan nên thăng hay giáng”.
Lời người xưa còn đó!
Bao giờ giang sơn Đại Việt “mới” sẽ được lấy lại từ tay CS Bắc Việt.
Ngày Quốc Hận 2013
Mai Thanh Truyết

Tóm Lược Cáo Trạng Tội Ác Của HCM Và Đảng CSVN

CĐNVQGLBHY 2013/05/09

CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA LIÊN BANG HOA KỲ

TÓM LƯỢC BẢN CÁO TRẠNG TỘI ÁC
CỦA HỐ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Nhân ngày Quốc Hận 30 tháng 4 lần thứ 38
_______________________

Kính thưa toàn thể đồng bào trong và ngoài nước,

Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 lần thứ 38 năm nay đánh dấu một giai đoạn cực kỳ đen tối trong lịch sử Việt Nam. Đảng CSVN đang đưa đất nước và dân tộc Việt Nam vào một tình thế suy vong, mọi người dân Việt trong và ngoài nước không thể nào làm ngơ. Thời gian 38 năm đã quá đủ để không còn cho phép đảng CSVN tiếp tục ngự trị đất nước Việt Nam được nữa.
Để nhìn lại tổng quát quãng đường mà đảng CSVN đã tàn phá đất nước, chúng tôi gửi đến quý vị bản cáo trạng tội ác mà Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã gây ra cho dân tộc Việt Nam trong thời gian gần 70 năm (1945-2013) để chúng ta cùng suy nghiệm và có hành động thích ứng.
Trân trọng
CĐNVQG/LBHK
***
Đảng cộng sản Việt Nam mà tiền thân là đảng cộng sản Đông Dương do Hồ Chí Minh thành lập năm 1930, dưới sự chỉ đạo và nuôi dưỡng của Cộng Sản Quốc Tế, từ khi xuất hiện đã gieo biết bao nỗi đau thương, tang tóc cho Dân Tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh (HCM) và Đảng cộng sản Việt Nam (CSVN) đã để lại cho Dân Tộc một trang sử đầy máu và nước mắt, một vết nhơ tồi tệ và tàn bạo nhất trong lịch sử Việt Nam cận đại. Theo những nghiên cứu gần đây, HCM được liệt vào trong danh sách 13 nhà độc tài ác độc nhất của thế kỷ 20 với thành tích: Hồ Chí Minh, Việt Nam, cầm quyền 1945-1969, chịu trách nhiệm về cái chết của 1,7 triệu người; tội ác lớn nhất: gây ra chiến tranh Việt Nam (theo báo Polska, Balan, ngày 5-3-2013). Nhiều tài liệu khác cho biết con số này lên đến 3 triệu.
Dưới đây là tóm lược những tội ác chính của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam.

1-      TỘI ĐEM CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN DU NHẬP VIỆT NAM
HCM đã gia nhập đảng cộng sản Pháp năm 1921, được huấn luyện tại Mạc Tư Khoa (Moscow; Moskva) năm 1923 để trở thành một đảng viên Quốc Tế Cộng Sản thuần thành và trung kiên, phục vụ mục tiêu đem chủ nghĩa CS về áp đặt tại Đông Dương (trong đó có Việt Nam) núp dưới chiêu bài “giải phóng dân tộc”. HCM từng nói: “Con đường giải phóng dân tộc phải là con đường cách mạng vô sản”; “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” và “Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa” (Hồ Chí Minh: Toàn Tập, nxb Sự Thật, Hà Nội, 1980, tập 1, tr. 3-4),
“Nếu như HCM không du nhập chủ nghĩa cộng sản từ phương Tây về thì làm gì có chế độ khắc nghiệt ở Việt Nam như thế này, làm sao có những tai họa cho đất nước chúng ta ngày hôm nay.
“Nếu như Hồ Chí Minh không đem cái chủ nghĩa khốn khổ, khốn nạn này về thì dân tộc ta không phải gánh chịu những cuộc cải cách long trời lở đất, đồng thời không thể có vụ án Nhân Văn Giai Phẩm tiêu diệt toàn bộ những nhà trí thức lớn tại miền Bắc và vụ án “xét lại chống đảng”.
“Nếu như không có Hồ Chí Minh thì chắc chắn dân tộc ta không phải chịu cảnh chia cắt đất nước làm đôi. Chắc chắn không bị mất đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng Ải Nam Quan hay Thác Bản Dốc. Đặc biệt là không phải hy sinh 3 triệu máu xương của đồng bào ta và không phải bị thế giới cô lập suốt mấy chục năm trời. Như vậy thì chắc chắn dân tộc ta không thể thua kém các quốc gia trong vùng về mọi mặt” (AQL).

2-      TỘI LÀM MẤT CƠ HỘI GIÀNH ĐỘC LẬP CHO VIỆT NAM
Năm 1945, sau khi thế chiến thứ hai kết thúc, xu hướng giải trừ chế độ thuộc địa được quốc tế chấp nhận qua hội nghị Yalta ngày 11-2-1945 (bao gồm Mỹ, Nga và Anh) , kể từ đó nhiều nước bị đô hộ lần lượt được tự do mà không phải đổ máu và không cần phải có chủ nghĩa cộng sản. Trong khi tại Đông Dương, các lực lượng ái quốc Việt Nam được Đồng Minh hỗ trợ để thu hồi độc lập, nhưng HCM và tổ chức phụ thuộc Việt Minh đã dùng mọi thủ đoạn thủ tiêu các nhà yêu nước không cộng sản, khiến cơ hội Đất Nước thoát khỏi ách thực dân đã bị đánh mất chỉ vì tham vọng bành trướng chủ nghĩa CS tại Việt Nam của HCM.


3-      TỘI CẤU KẾT VỚI PHÁP KÝ HIỆP ĐỊNH SƠ BỘ NGÀY 6-3-1946.
Hồ Chí Minh đã ký kết hiệp định Sơ Bộ Pháp-Việt ngày 6 tháng 3 năm 1946 với viên đại diện của Pháp là Jean Sainteny, chấp nhận cho Pháp mang 15,000 quân ra miền Bắc Việt Nam nhằm thay thế quân đội Trung Hoa Quốc Gia (200,000 người), chỉ vì quân đội của Tưởng Giới Thạch ủng hộ các đảng phái Quốc Gia không cộng sản và do đồng minh ủy nhiệm.
Cũng vì thế thực dân Pháp mới có cơ hội trở lại Việt Nam, cuối cùng Pháp phản bội, gây nên cuộc chiến kéo dài suốt 9 năm trời, tổn hại biết bao xương máu và chia đôi đất nước một cách vô ích.


4-      TỘI GIẾT HẠI CÁC THÀNH PHẦN KHÁNG CHIẾN QUỐC GIA KHÔNG CỘNG SẢN
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp của toàn dân, nhiều lãnh tụ Quốc Gia đã bị Việt Minh (do HCM lãnh đạo) thủ tiêu như: Trương Tử Anh (Đại Việt QDĐ) bị giết ở Hà Nội; Khái Hưng và Phan Khôi (VNQDĐ) bị giết ở Mỹ Lộc, Nam Định;  Lý Đông A, Phạm Lãi, Nguyễn Ân (Duy Dân) bị giết ở Nho Quan, Hòa Bình;  Tạ Thu Thâu ở Quảng Ngãi; Phan Văn Hùm, Dương Bạch Mai ở Biên Hòa; Bửu Viêm, Nguyễn Trung Thuyết ở Huế; 3.000 chức sắc, tín hữu Cao Đài bị giết ở xã Nghĩa Trung, Quảng Ngãi cuối tháng 8/45; 115 chức sắc, tín hữu khác bị giết ngày 12-3-47 tại Trung Lập Thượng, Tây Ninh; trên 400 tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo bị thủ tiêu tại Phú Lâm cuối năm 1945; 235 chức sắc và tín đồ Hòa Hảo khác bị bắt rồi bị giết bằng dao găm và chôn tập thể tại Phú Thuận Kiến Phong; Đức Huỳnh Phú Sổ bị giết ngày 16-4-1947 tại Cao Lãnh và còn rất nhiều nạn nhân khác không thể kể xiết.

5-      TỘI CẤU KẾT VỚI CỘNG SẢN QUỐC TẾ VÀ PHÁP CHIA ĐÔI ĐẤT NƯỚC QUA HIỆP ĐỊNH GENEVE NĂM 1954
Ngày 20-7-1954, HCM và Việt Minh đã cấu kết với cộng sản Tàu, Liên Xô và Pháp chia cắt đất nước theo Hiệp Định Geneve nhằm phục vụ quyền lợi của đảng cộng sản Việt Nam và quan thầy là Nga và Trung Cộng, chuẩn bị cho việc chiếm trọn miền Nam sau này. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam do ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng, và ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đã không ký vào hiệp ước vì Pháp đã trao trả độc lập cho Việt Nam 6 tuần trước đó (ngày 4 tháng 6, 1954).


6-      TỘI ÁP ĐẶT CHẾ ĐỘ TOÀN TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TẠI MIỀN BẮC, BIẾN CON NGƯỜI THÀNH NÔ LỆ PHỤC VỤ CHO TẦNG LỚP CAI TRỊ, LÀM BĂNG HOẠI XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM.

Sau 1954, nhân dân miền Bắc hoàn toàn chìm đắm trong hỏa ngục chủ nghĩa cộng sản của HCM và đảng CSVN. Mọi quyền tự do căn bản hoàn toàn bị tước đoạt. Các tôn giáo hoàn toàn bị khống chế, xã hội Việt Nam băng hoại, văn hóa bị nhiễm chủ nghĩa Mác Xít. Năm 1956, HCM phát động cái gọi là “Cải Cách Ruộng Đất”, đấu tố dã man giết hại trên 300 ngàn người. Năm 1958, vụ án Nhân Văn Giai Phẩm đã đàn áp và sát hại các Văn Nghệ Sĩ, các nhà trí thức lớn ở miền Bắc, biến nền văn học miền Bắc thành công cụ phục vụ chủ nghĩa xã hội. Năm 1967, CS thanh trừng, giam cầm mà không xét xử các thành phần được gọi là “xét lại chống đảng”. Nói chung, miền Bắc đã trở thành một ốc đảo nhà tù, nghèo đói chẳng khác gì quốc gia cộng sản Bắc Hàn hiện nay.

7-      TỘI PHÁT ĐỘNG CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC MIỀN NAM GÂY THIỆT MẠNG  HÀNG TRIỆU NGƯỜI
Tại miền Nam, trong lúc người dân được hưởng một chế độ dân chủ, tự do, và xây dựng đất nước hòa bình thịnh vượng thì vào năm 1960, CSVN thành lập cái gọi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”, tay sai và công cụ của cộng sản Bắc Việt, phát động chiến dịch phá hoại chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, mở  màn cho một cuộc chiến tương tàn giết hại hàng triệu sinh linh hai miền Nam Bắc.


8-      TỘI THẢM SÁT, GIẾT NGƯỜI HÀNG LOẠT TRONG TẾT MẬU THÂN 1968
Năm 1968 vào dịp Tết Mậu Thân, cộng sản Bắc Việt vi phạm lệnh ngưng bắn, bất chấp ngày Tết cổ truyền linh thiêng, bất ngờ tấn công các thành phố miền Nam. Riêng tại Huế, đã giết hoặc chôn sống trên 5000 người dân vô tội (có thể nhiều hơn nữa). Tội ác tày trời này mãi mãi vẫn tồn tại, là mối căm hờn trong lòng mọi người dân Việt Nam.


9-      TỘI VI PHẠM HIỆP ĐỊNH PARIS 1973 CHIẾM TRỌN MIỀN NAM NĂM 1975
Năm 1975, mùa Xuân Ất Mão, trước sự biến động của bàn cờ quốc tế, cộng sản BV được sự yểm trợ của khối xã hội chủ nghĩa mà đứng đầu là Liên Sô và Tàu Cộng, đã vi phạm hiệp định Paris mà họ đã ký kết năm 1973, ngang nhiên chiếm trọn miền Nam, áp đặt một chế độ cai trị tàn bạo trên hai miền Nam Bắc, thực hiện kế hoạch nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á, gây nên biết bao tai ương đối với dân tộc Việt Nam.
Trong 38 năm cầm quyền, tà quyền CS Hà Nội cai trị bằng bạo lực và nhà tù; mọi quyền tự do căn bản đều bị tước đoạt, điển hình như tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tư tưởng…, bắt bớ, giam cầm, xử tù những người bất đồng chính kiến một cách bất công. Tội của CSVN không thể kể xiết.
Chẳng những thế, tập đoàn cai trị CSVN chiếm hữu và chia nhau tài sản quốc gia; tham nhũng, hối lộ trở thành lối sống văn hóa bình thường trong xã hội; giai cấp tư bản và tập đoàn cầm quyền bóc lột, đè đầu đè cổ người dân đến tận xương tủy còn hơn thời Pháp thuộc, hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng mở rộng mà trên chóp là tập đoàn cai trị CS.


10-  TỘI TRẢ THÙ CÁC CÔNG CHỨC, QUÂN NHÂN, CÁN BỘ VNCH, VÀ GIA ĐÌNH
TỘI ĐÁNH TƯ SẢN MẠI BẢN TRIỆT HẠ NỀN KINH TẾ CỦA MIỀN NAM
Sau 1975, CSVN áp dụng chính sách trả thù tàn bạo, giam giữ hàng triệu công chức, quân nhân VNCH, thành viên các đảng phái chính trị, các văn nghệ sĩ, đoàn thể xã hội, các tôn giáo (như Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo), chủ nhân các cơ sở kinh tế, thương mại tại miền Nam đều bị ghép vào tội phản động và tư sản mại bản, bị giam giữ lâu dài trong các trại tập trung như của Đức Quốc Xã, bị bỏ đói, lao động cực nhọc, tra tấn, đánh đập dã man mà CS che đậy bằng mỹ từ “học tập cải tạo”. Hàng triệu người bị đuổi lên vùng kinh tế mới nơi rừng thiêng nước độc, nhiều người đã phải bỏ xác vì bệnh tật, đói khát.
CSVN đã áp dụng chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa như ở miền Bắc, đánh “tư sản mại bản”, triệt hạ nền kinh tế từng làm giàu miền Nam để trở nên như miền Bắc, dân chúng đói khổ, trong lúc vựa lúa miền Nam đã từng xuất cảng gạo trên thế giới.


11-  TỘI PHẢN BỘI NGAY NHỮNG NGƯỜI TỪNG HỢP TÁC THAM GIA PHÁ HOẠI MIỀN NAM
TẤN CÔNG SANG CAMPUCHIA
Ngay sau 1975, CSBV vội vàng khai tử Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhiều người từng theo MTGPMN bất mãn, chỉ còn lại Nguyễn Hữu Thọ và Nguyễn Thị Bình với các chức vụ bù nhìn. Một số khác bị bắt giam như Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hộ… vì đòi Hà Nội phải thi hành Hiệp Định Paris. Trương Như Tảng trốn thoát và lưu vong tại Paris. Nhiều thành phần trước đây là cán bộ, đảng viên đảng CS nay thức tỉnh khi nhìn thấy sự thật, và bị đối xử một cách bất công.
Năm 1979, CSVN đưa quân sang đánh Campuchia theo kế hoạch bành trướng chủ nghĩa CS, cuối cùng bị sa lầy phải rút lui, làm tổn thương rất nhiều sinh mạng thanh niên và tài sản quốc gia. Cũng vì lý do này, chiến tranh biên giới giữa Tàu Cộng và CSVN năm 1979 xảy ra gây thiệt hại cả người lẫn của, làm mất đi nhiều phần lãnh thổ về tay Trung Cộng.


12-  TỘI ĐẨY HÀNG TRIỆU NGƯỜI PHẢI BỎ NƯỚC RA ĐI TÌM TỰ DO
Vì không thể sống dưới chế độ tàn bạo của CSVN, hàng triệu người đã phải rời bỏ quê hương tìm tự do, bất chấp hiểm nguy trên biển cả, hàng trăm ngàn người đã vùi thây trong lòng đại dương hoặc trên đường vượt biên bằng đường bộ, gây ra thảm cảnh đau thương cùng cực chưa từng có trong lịch sử gần 5000 năm của Việt Nam, biết bao gia đình bị ly tán.


13-  TỘI DUY TRÌ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN LỖI THỜI SAU KHI ĐÔNG ÂU VÀ LIÊN XÔ SỤP ĐỔ.
Sau khi khối Cộng Sản Đông Âu sụp đổ vào cuối thập niên 1980, và thành trì Cộng Sản Liên Xô tan rã năm 1990, thế giới bước vào một thời kỳ mới: phát triển kinh tế, tôn trọng nhân quyền, mở rộng cánh cửa tự do cho người dân. Trong lúc đó, CSVN vẫn không thức tỉnh, mặc dù buộc phải mở cửa ra thế giới để sống còn, nhưng vẫn ngoan cố duy trì chủ nghĩa CS đã bị thế giới loại bỏ, áp dụng một chế độ cai trị độc tài, độc đảng, công an trị, phủ nhận quyền tự do cản bản của công dân biến nước ta thành một nhà tù vĩ đại. Đặc biệt là các tôn giáo bị khống chế: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bị cấm hoạt động cũng như Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài và nhiều nhánh của Tin Lành. Riêng Công giáo, CSVN tìm cách ngăn chặn, không trả các tài sản bị chiếm trước đây, kiểm soát việc đào tạo và bổ nhiệm tu sĩ, ngăn cấm việc giáo dục và xuất bản sách báo tôn giáo.


14-  TỘI TRÙ DẬP, ĐÀN ÁP NHỮNG TIẾNG NÓI DÂN CHỦ, ĐÒI TỰ DO TÔN GIÁO, TỰ DO NGÔN LUẬN,
ĐÒI BÃI BỎ ĐỘC QUYỀN ĐẢNG CS (ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP)
Nhà cầm quyền CSVN tiếp tục bắt giam những nhà hoạt động muốn đóng góp ý kiến xây dựng dân chủ, dùng luật lệ man rợ của thời Trung Cổ để trấn áp. Vô số tù nhân lương tâm vì nói lên sự thật, vì bày tỏ lòng yêu nước chống Trung Cộng xâm lược bảo vệ đất nước đều bị đàn áp và bắt giam như LM Nguyễn Văn Lý, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Mục sư Lê Hồng Quang (Giáo Hội Tin Lành Mennonite), các cư sĩ Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài; các trí thức yêu nước như Bs Nguyễn Đan Quế, TS Cù Huy Hà Vũ, TS Lê Quốc Quân, LS Lê Thị Công Nhân, LS Nguyễn Văn Đài, ký giả Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Huỳnh Thục Vy, nhạc sĩ Việt Khang và còn rất nhiều tù nhân lương tâm khác đang bị giam giữ. Nhà cầm quyền tiếp tục hà hiếp người dân vô tội; cướp đất, cướp nhà, dân oan thấp cổ bé miệng khắp nơi; công an đánh chết dân lành, bỏ tù những nhà lên tiếng đòi tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do báo chí..

15-  TỘI BÁN ĐỨNG BIỂN ĐẢO, ĐẤT ĐAI CHO TÀU CỘNG
Tội ác vô cùng to lớn đối với đất nước và dân tộc là Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã bán đứng các phần biển đảo cho Trung Cộng: năm 1958, Phạm Văn Đồng ký công hàm công  nhận chủ quyền của TC trên các phần biển ngoài khơi Việt Nam.
Với sự thông đồng của đảng CSVN, Trung Cộng chiếm dần tất cả hải đảo, mở rộng bành trướng khắp vùng biển Đông Nam Á, âm mưu biến đất nước Việt Nam thành một đặc khu của Tàu Cộng qua trung gian của bọn Thái Thú và đảng CSVN.

16-  TỘI NGOAN CỐ BÁM GIỮ QUYỀN LỰC TRƯỚC NHỮNG ĐÒI HỎI CHÍNH ĐÁNG VỀ TỰ DO DÂN CHỦ.
Trong những ngày gần đây, nhằm giàm bớt sự bất mãn cùng cực của quần chúng, đồng thời lừa gạt dư luận bằng cách cho hỏi ý kiến dân về việc cải tổ hiến pháp. Dựa vào cơ hội này, nhiều thành phần yêu nước, yêu dân chủ đã nhất tề lên tiếng đòi xóa bỏ độc quyền của đảng CSVN, đòi bỏ điều 4 hiến pháp, đòi tổ chức một quốc hội lập hiến (như các tiếng nói của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giáo Hội PGVNTN, Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo và nhiều người yêu nước khác, trong khi đó nhà cầm quyền tiếp tục răn đe, dùng mọi thủ đoạn để trấn áp).
Và còn nhiều nhiều tội khác mà vì trang giấy có hạn nên không thể kể ra.
***
Kính thưa toàn thể đồng bào,
Đất nước Việt Nam thật sự đang đứng trên bờ vực thẳm của nô lệ. Tổ Quốc Việt Nam thật sự đang lâm nguy và tiếng nói của người dân trong nước đã vang vọng khắp nơi, tình hình đã chín mùi cho một cuộc Cách Mạng để toàn dân đứng lên giải thể chế độ bạo tàn, bán nước, do đảng cộng sản Việt Nam chủ trương, nhằm kiến tạo một nước Việt Nam độc lập, tự do, hòa bình, công lý và thịnh vượng.
Hãy cùng bắt tay nhau làm lịch sử.

Làm tại Hoa Kỳ ngày 5 tháng 4, 2013
Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Liên Bang Hoa Kỳ
Web: CDLBHK.ORG
CĐNVQGLBHY

Thursday 9 May 2013

Phần Lan sẽ điều tra về dự án “Điện mặt trời” ở Việt Nam

5-2013
HÀ NỘI (NV) – Tòa Đại sứ Phần Lan tại Việt Nam vừa khẳng định phía Phần Lan sẽ điều tra toàn diện việc thực hiện dự án “Ứng dụng Điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam”.
Đồng thời sẽ yêu cầu Ban Quản lý dự án “Ứng dụng Điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam” cũng như các cơ quan có liên quan phía Việt Nam, giải trình về hiện trạng của dự án này tại xã Háng Đồng, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La.
Đây là kết quả từ cuộc gặp giữa đại diện Tòa Đại sứ Phần Lan tại Việt Nam với hai bloggers Nguyễn Tuấn Linh và Đặng Trần Tùng.
Các thùng chứa thiết bị của trạm thu – chuyển hóa năng lượng mặt trời thành điện năng, được đưa từ Phần Lan tới Háng Đồng để phơi mưa, nắng. Mỗi trạm trị giá 2,8 tỷ đồng hay khoảng 135,000 đô la. (Hình: Blogger Nguyễn Tuấn Linh).
Tuần trước, blogger Nguyễn Tuấn Linh gửi một thư ngỏ tới Tòa Đại sứ Phần Lan tại Việt Nam, đề nghị xem lại dự án có tên “Ứng dụng Điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam”, do chính quyền CSVN thực hiện bằng tiền của Phần Lan, sau khi khi đến thăm xã Háng Đồng, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La.
Theo blogger Nguyễn Tuấn Linh, tại xã Háng Đồng, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La có nhiều thùng gỗ mà nhãn trên thùng cho biết, đó là những thiết bị do hãng NAPS sản xuất để thu – chuyển hóa năng lượng mặt trời thành điện năng, đang để chỏng chơ giữa trời.
Nhãn trên các thùng chứa thiết bị, bị vứt lăn lóc ở xã Háng Đồng. (Hình: Blogger Nguyễn Tuấn Linh) 
Hỏi thăm một số viên chức trong xã và dân chúng địa phương, blogger Nguyễn Tuấn Linh được biết thêm, những thùng thiết bị đó, đã chuyển tới Háng Đồng từ năm 2009, nghe nói là để thực hiện dự án có tên là “Ứng dụng Điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam” nhưng không rõ vì sao lại bỏ dở từ đó tới nay.
Blogger Nguyễn Tuấn Linh tin rằng, những thiết bị đắt tiền này, chắc chắn đã trở thành vô dụng sau khi bị phơi giữa nắng, mưa suốt bốn năm qua.
“Ứng dụng Điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam” là một dự án do chính quyền CSVN soạn thảo. Mục tiêu là tìm kiếm nguồn tài trợ quốc tế để chuyển năng lượng mặt trời thành điện năng, cung cấp cho dân chúng hàng trăm xã miền núi mà vì nhiều lý do chưa có điện để dùng.
Một số tài liệu cho biết, năm 2000, Phần Lan đồng ý viện trợ cho Việt Nam thực hiện dự án vừa kể. Việc thực hiện sẽ được chia thành nhiều giai đoạn. Giai đoạn 1 từ 2001 – 2010, phía Phần Lan giao cho Việt Nam 5,3 triệu Euro. Trong đó, 37% của khoản tiền 5,3 triệu Euro được xem là “hỗ trợ phát triển chính thức” (ODA). Việt Nam có trách nhiệm hoàn trả 63% còn lại (được xem là tín dụng ưu đãi, Việt Nam không phải trả lãi) sau 17 năm.
Cũng theo các tài liệu này, Ủy ban Dân tộc của chính quyền CSVN được giao làm chủ đầu tư của dự án. Phía Phần Lan giao thiết bị và trợ giúp kỹ thuật để đến cuối năm 2010, Việt Nam hoàn tất việc lắp đặt 70 trạm cung cấp điện lấy từ năng lương mặt trời cho 34 xã thuộc các tỉnh miền Trung và 36 xã ở vùng núi phía Bắc Việt Nam.
Tính trung bình, mỗi trạm cung cấp điện lấy từ năng lượng mặt trời cho một xã, trị giá khoảng 2,8 tỷ đồng. Hiện chưa rõ việc thực hiện các trạm cung cấp điện lấy từ năng lượng mặt trời cho 69 xã còn lại của dự án “Ứng dụng Điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam” thế nào, riêng tại Háng Đồng, rõ ràng Ủy ban Dân tộc của chính quyền CSVN đã vứt đi 2,8 tỷ đồng.
Trong Thư ngỏ gửi Đại sứ Phần Lan, blogger Nguyễn Tuấn Linh viết rằng, vì chính người Việt sẽ phải trả các khoản vay cho việc thực hiện dự án “Ứng dụng Điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam”. Blogger này “khẩn thiết đề nghị” phía Phần Lan cho kiểm tra tình hình thực tế việc triển khai, chất lượng và hiệu quả của dự án, tránh để xảy ra tình trạng lãng phí như ở xã Háng Đồng, gây tổn hại tới lợi ích kinh tế cho nhân dân Việt Nam và mất uy tín của Cộng hòa Phần Lan.
Blogger Nguyễn Tuấn Linh, người liên lạc với Tòa đại sứ Phần Lan thông báo các trang bị kỹ thuật viện trợ giúp các khu vực miền núi Việt Nam đã bỏ phơi mưa nắng suốt 4 năm qua. (Hình Blog Nguyễn Tuấn Linh)
Trong cuộc gặp hai bloggers Nguyễn Tuấn Linh và Đặng Trần Tùng, ông Tomi Särkioja – Tham tán Tòa Đại sứ Phần Lan khẳng định, những thông tin và hình ảnh do blogger Nguyễn Tuấn Linh cung cấp khiến phía Phần Lan sửng sốt. Ngoài việc yêu cầu phía Việt Nam giải trình, Phần Lan sẽ tổ chức các cuộc thị sát tại xã Háng Đồng và các xã khác trong danh sách triển khai dự án. Họ hứa sẽ gửi kết quả điều tra cho blogger Nguyễn Tuấn Linh.
Ngoài dự án “Ứng dụng Điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam”, Phần Lan đang hỗ trợ Việt Nam thực hiện nhiều dự án khác như: “Chương trình Giảm nghèo”, “Nước sạch và xử lý nước thải”, “Tín dụng ưu đãi”, “Thương mại và xúc tiến thương mại”.
Thực tế sử dụng viện trợ và vốn vay để thực hiện dự án “Ứng dụng Điện mặt trời cho khu vực miền núi và dân tộc ở Việt Nam” tại xã Háng Đồng, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La, chắc chắn sẽ khiến Phần Lan thận trọng hơn khi quyết định viện trợ và cho chính quyền CSVN vay tiền.
Có thể lại sắp có một scandal liên quan đến việc chính quyền CSVN sử dụng viện trợ và tiền vay của nước ngoài. Scandal này sẽ không chỉ ảnh hưởng đến các quyết định viện trợ, cho vay của riêng Phần Lan. Phần Lan là một thành viên của cộng đồng châu Âu và các thành viên này thường chia sẻ thông tin lẫn khuyến cáo nhau. (G.Đ)
 

Friday 3 May 2013

Chiến thắng của Dân tộc là chiến thắng của những rô bốt?

3-5-13
Đức Thành
Ngày 30/4/2013 vừa qua chương trình thời sự 19h VTV dẫn lời và hình của thiếu tướng Phan Kỳ cho rằng nếu phi chính trị hóa quân đội thì “quân đội ta là đội quân của những người máy”, như thế thì không thể chiến thắng vẻ vang được. Tại buổi toạ đàm góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp ngày 13/3/2013 do báo Quân đội Nhân dân tổ chức cũng với nội dung trên, thiếu tướng cho rằng “phi chính trị hóa quân đội sẽ trở thành đội quân rô bốt vũ lực”. Qua đó ông nhấn mạnh quân đội cần thiết phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kháng chiến chống quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh… làm gì có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, làm gì có Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác giúp đỡ. Vậy mà dân tộc ta vẫn thắng lợi vẻ vang. Trong những nhà nước phong kiến của Việt Nam ấy cái hệ chính trị tư tưởng nào đã thống soái để làm kim chỉ nam cho các chiến thắng vĩ đại ấy của đân tộc? Tư tưởng yêu nước hay tư tưởng Cộng sản đã làm nên kỳ tích của ông cha chúng ta?

VTV đã từng dùng các chuyên gia hưởng lương bổng của Đảng và nhà nước để bôi nhọ, hạ thấp những ý kiến đóng góp sửa đổi hiến pháp bằng cách vu cho những ý kiến đóng góp trái chiều là bôi nhọ nhằm xóa bỏ Đảng. Tôi đã có bài viết “Ai xóa bỏ Đảng?” trên Bauxite Việt Nam, phản bác lại luận điệu kích động thù hằn dân tộc đối với những người góp ý theo hướng tôn trọng quyền con người, quyền công dân trong hiến pháp. Tưởng rằng việc này đã được rút kinh nghiệm nhưng không ngờ VTV vẫn nhân những ngày kỷ niệm mà đưa những ý kiến hời hợt, nông cạn lên truyền hình nhằm bảo vệ cho lập luận đảng trị chuyên quyền đầy ung nhọt, muốn thống lĩnh quân đội để đàn áp những ai có tư tưởng tự do dân chủ, nhằm xây dựng một đất nước thực sự giàu mạnh dân chủ văn minh. Những ý kiến hời hợt nông cạn phi dân tộc phi lịch sử đó được thể hiện như sau:

Thứ nhất: Việc “phi chính trị hóa quân đội” thực chất là phi đảng phái trong quân đội được thiếu tướng Phan Kỳ ví “quân đội sẽ như những đội quân rô bốt” chỉ đâu đánh đấy, không có tình cảm, không có lý trí để phân biệt, đúng sai, yêu ghét… và như thế không có chiến thắng. Thiếu tướng Phan Kỳ và những người đồng suy nghĩ này đã vô tình hay hữu ý hạ thấp truyền thống chống ngoại xâm anh dũng vinh quang của dân tộc ta. Vì mọi chiến thắng ấy đều bắt nguồn từ lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta qua các thời đại chứ không phải lòng yêu nước nồng nàn của riêng các đảng phái, giai tầng. 

Thứ hai: Như đã đề cập ở đầu bài viết ông cha ta đánh giặc giữ nước mở mang bờ cõi vì lý tưởng chấn hưng dân tộc Việt, vì dòng máu Việt, vì một đất tổ Vua Hùng… mà làm nên chiến công hiển hách chứ đâu phải vì lý tưởng cộng sản, vì chủ nghĩa xã hội hay vì bạn bè đồng chí với ai đó như Đảng đang ra sức tuyên truyền.
Ngược lại một quân đội rất dễ trở thành đội quân rô bốt hung hãn khát máu mất hết lý trí nếu quân đội đó mất gốc, không còn biết được từ đâu mà ra, không biết vì đâu mà phục vụ. Càng nguy hiểm hơn quân đội đó được lãnh đạo bởi một bộ phận không nhỏ của đảng cầm quyền thoái hóa biến chất không biết đến bao giờ khắc phục được. 

Thứ ba: Về phương pháp chiến tranh. Chỉ một đạo quân nhỏ mà Lý Thường Kiệt dám đem quân đi đánh phá chúng trước khi chúng đem quân sang đánh nước ta làm nhụt ý chí xâm lược của chúng. Một Trần Quốc Tuấn với thế trận Bạch Đằng tiêu diệt đội quân chỉ có chiến thắng chứ không hề chiến bại. Một Nguyễn Trãi với tư tưởng rất cụ thể “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” không hề siêu hình trừu tượng như chủ nghĩa xã hội mà Đảng đang kiên định ép cả dân tộc phải theo đuổi khi chẳng biết hình thù bộ dạng ra sao. Ngày nay có Đảng lãnh đạo, có khí tài hiện đại, mà Đảng vẫn phải vận dụng những học thuyết chiến tranh nhân dân của cha ông từ thuở xa xưa khi tổ tiên không hề có ý niệm về cộng sản về chủ nghĩa xã hội cơ mà.

Thứ tư: Xưa tiền nhân chăm lo giữ gìn bờ cõi thì nay dân biểu tình khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam lại bị Đảng trấn áp, giam cầm; ngư dân vẫn bị tàu “lạ” của “nước lạ” bắt bớ, đốt phá trên chính lãnh hải của mình.
Hiến pháp 1992 đang còn hiệu lực; Đảng vẫn đã và đang lãnh đạo quân đội đấy chứ. Vậy liệu quân đội vì Đảng có chiến đấu và chiến thắng để lấy lại Hoàng Sa và một số đảo của Trường Sa do bạn bè của Đảng xâm lăng hay đã bị “rô bốt hóa” mất rồi, thưa thiếu tướng?!
Đ. T.