Sunday 30 September 2012

Học « Cấp Tốc » 3 Ngày Để Làm Vợ Đàn Ông Nam Hàn

NguoiViet Online , C/N 2012/09/30
Cần Thơ ( NV ) - Chỉ có vỏn vẹn 3 ngày để các cô dâu ở miền Tây của Việt Nam trải qua một « lớp học cấp tốc » trước khi sang làm vợ đàn ông Nam Hàn trong lúc chờ đợi được cấp Visa . Lớp học có 25 học viên là những phụ nữ đã kết hôn với người Nam Hàn ( Hình : VNN ) VietNamNet cho biết : « Lớp học được tổ chức đào tạo rất cấp tốc tại thành phố Cần Thơ , dành riêng cho các cô dâu đã lấy chồng Nam Hàn . Mỗi lớp học có 25 học viên » . « Trong 3 ngày học tập , các kiến thức được giáo viên giảng dạy chủ yếu khái quát về tình hình phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài , điều trăn trở cần biết khi kết hôn và một số điểm lưu ý khi chị em phụ nữ ra nước ngoài sinh sống ... » . Theo VietNamNet : « Tài liệu này do Hội Liên Hiệp Phụ Nữ thành phố Cần Thơ thuyết giảng » . Tin cho biết , « Ngoài ra , những tài liệu khái quát về đất nước , con người xứ Hàn để cô dâu Việt hình dung được cơ bản đất nước mà họ sẽ về làm dâu như kiểu : Văn hoá các món ăn , trang phục , giao tiếp ... đến cách chăm sóc gia đình chồng và con cái » . Các cô dâu được hướng dẫn làm các món ăn của Nam Hàn ( Hình : VNN ) « Tuy nhiên , trình độ học vấn trong nước của rất nhiều cô dâu Việt khi được hỏi chủ yếu mới học hết lớp 9 , lớp 10 , 11 ; rất ít học hết lớp 12 . Ðiều đó cũng gây khó khăn cho những cô dâu khi tiếp cận một nền văn hoá mới » . « Khi được hỏi , họ đều bảo những gì họ biết về đất nước Nam Hàn là một màu hồng , được xem qua phim ảnh » . Lớp học cũng cung cấp những số điện thoại gọi khẩn cấp , dịch vụ hỗ trợ khi gặp tình huống xấu có thể xảy ra đối với cô dâu trẻ mới sang xứ Hàn . « Nhiều cô dâu cho biết , việc gặp gỡ đến kết hôn với người chồng đều thông qua môi giới , thời gian chỉ từ 3-5 ngày . Sau khi các ‘chàng trai’ Hàn cưới vợ xong khoảng 5 ngày thì trở về nước , để vợ ở lại quê nhà chờ làm thủ tục visa và khăn gói sang sau » . VietNamNet dẫn lời cô dâu HTMT ( 20 tuổi ) , tại thành phố Cần Thơ , lấy chồng là Oh To Jin ( 42 tuổi ) chia sẻ , « việc lấy chồng là do em yêu và thích con người Nam Hàn , một đất nước phát triển , giữ gìn được nét đẹp truyền thống trong gia đình nhiều thế hệ » . « Hơn nữa , việc lấy chồng nhiều hơn tuổi mình không thành vấn đề , bởi nhiều tuổi thì có kinh nghiệm sống và biết lo toan cho cuộc sống » . Theo T : « Có tiền họ mới sang nước mình cưới vợ , khi mà đời sống kinh tế đảm bảo thì em nghĩ sẽ có điều kiện chăm sóc gia đình , con cái » . « Không phải mình không muốn lấy chồng trong nước , nhưng khi nhìn nhiều bạn trai cùng trang lứa , cứ sáng cà phê , chiều lại cà phê và tối thì nhậu nhẹt suốt ngày , em thấy chán cảnh đó . Em quyết định lấy chồng nước ngoài , đất nước mà em yêu thích là Nam Hàn . Em nghĩ mình sẽ là người vợ đảm đang bằng cách chịu khó học hỏi » - cô dâu T rất tự tin sau 2 tháng cưới chồng Hàn . Riêng cô dâu NTKT ( 22 tuổi ) , quê ở Hậu Giang , lấy chồng là Lee Kyeong Ho ( 47 tuổi ) , người chồng của T chỉ quen biết nhau 3 ngày là làm đám cưới và ít hơn bố đẻ cô dâu 2 tuổi . Quan điểm của T : « Nghỉ học từ năm lớp 9 , làm thợ may và nuôi giấc mơ lấy chồng Hàn từ lâu . Vấn đề tuổi tác không quan trọng . Em chỉ muốn xây dựng một gia đình hạnh phúc » . VietNamNet dẫn lời bà Won Sun A , người đại diện đào tạo các cô dâu lấy chồng Nam Hàn , khu vực Ðồng Bằng Sông Cửu Long , tại Cần Thơ cho biết : Hầu hết các cô dâu tại đây lấy chồng đều thông qua công ty môi giới ( bất hợp pháp và phi hợp pháp ) . Ở Nam Hàn có công ty môi giới hôn nhân và mỗi người đàn ông khi lấy vợ phải chi trả cho dịch vụ môi giới từ 10 000 - 15 000 đô la . Ðàn ông Nam Hàn chọn lấy vợ Việt Nam vì có một nền văn hoá ở khu vực Ðông Nam Á khá giống nhau . Những người phụ nữ ở đây đảm đang và đáp ứng được nguyện vọng của nhiều người đàn ông ở Nam Hàn . Theo bà Won Sun A , « Trung tâm hoạt động tại Cần Thơ từ tháng 10/2011 đến nay , đào tạo khoảng hơn 1 000 phụ nữ đã kết hôn lấy chồng Nam Hàn » . Trong khi đó , « Theo Hội Liên Hiệp Phụ Nữ tại TP . Cần Thơ , tính từ năm 1997 đến 2007 , toàn quốc có 180 000 phụ nữ kết hôn với người nước ngoài , ở hơn 50 lãnh thổ quốc gia . Trong đó , 38 % lấy chồng ở TC , 29 % lấy chồng Ðài Loan , 8 % kết hôn với Nam Hàn và 25 các nước còn lại » . Còn tính từ năm 2002 đến 2010 , có khoảng 40 000 phụ nữ Việt kết hôn với người Nam Hàn . Tập trung chủ yếu là các tỉnh Ðồng Tháp , Bạc Liêu , Cần Thơ , Cà Mau , Bến Tre , Hậu Giang ... chiếm 79 % của cả nước ( KN ) . NguoiViet Online , C/N 2012/09/24

'Trung Quốc dùng gái và tiền dụ người Việt Nam làm gián điệp'


Friday, September 28, 2012 9:02:56 PM




Phỏng vấn cựu tù chính trị Nguyễn Văn Đài
Tin tức phòng thủ các đảo Trường Sa với Trung Quốc là 'vô giá”


Nam Phương/Người Việt


'Tại nhà tù Ba Sao thuộc tỉnh Nam Hà giam giữ khoảng 3 ngàn tù nhân thì có khoảng hơn 30 tù gián điệp người Việt Nam hoạt động cho Trung quốc bị bắt và bỏ tù.'

Đây là lời kể của LS Nguyễn Văn Đài về số tù gián điệp tại phân trại 1 khi ông bị giam ở đó với bản án 4 năm “tuyên truyền chống nhà nước...” chỉ vì vận động dân chủ hóa đất nước.
Các vụ án xử tù gián điệp hầu như không được tường thuật trên báo chí chính thống tại Việt Nam nên không ai nghe nói đến lọai tù này cho tới khi báo Người Việt phỏng vấn hai tù nhân chính trị Nguyễn Văn Đài và Phạm Văn Trội.

Ông Đài hết hạn tù đầu Tháng Ba năm 2012 và ông Trội mới ra tù Tháng 9 vừa qua. Những lời kể về lọai tù gián điệp của hai ông có nhiều điều đáng để ý.
Chúng tôi trình bày các cuộc phỏng vấn hai ông với riêng từng người. Bài báo này là các chi tiết về tù gián điệp ở phân trại 1 cùng khu ông Đài bị giam giữ. Cuộc phỏng vấn kế tiếp sẽ là tù gián điệp ở phân trại 3 qua lời kể của ông Trội.


*****

* Nam Phương (Người Việt): Xin được hỏi là trong những ngày ông ở nhà tù Ba Sao, Nam Hà, ông thấy có bao nhiêu tù gián điệp người Việt Nam họat động cho Trung quốc rồi bị bắt?

Cổng vào trại tù Ba Sao ở tỉnh Nam Hà. (Hình tài liệu của Ngừơi Việt)
-Ông Nguyễn Văn Đài (NVĐ): Khi tôi bị giam ở Ba Sao, lúc mới tới thì họ giam tôi ở buồng 1 khu A, ở đó có 4 tù nhân từng làm gián điệp cho Trung Quốc. Ở buồng số 2 bên cạnh thì có 4 tù nhân gián điệp. Cuối năm 2008 họ chuyển tôi sang buồng 6 thì có hơn 20 tù nhân gián điệp.
Trước sau, ở phân trại 1 có khoảng trên 30 tù gián điệp cho Trung quốc. Tới khi tôi rời trại thì còn khoảng 20 người.
NV: Như vậy, họ bị giam chung với các loại tù khác?
-NVĐ: Tù gián điệp Trung Quốc được giam chung với tù chính trị và tôn giáo.

Ở buồng giam số 1 và số 2 thì những tù nhân gián điệp ở đó đều cộng tác với an ninh trại giam để giám sát các tù nhân Tây Nguyên và các tù chính trị khác. Nhiệm vụ của họ là theo dõi phản ứng của các tù nhân Tây Nguyên và chính trị khi theo dõi các tin tức chính trị qua truyền hình, báo chí. Phản ứng của các tù nhân khi bị trại giam cưỡng bức lao động với mức khoán cao, đôi khi cắt điện, cắt nước, tiêu chuẩn cơm không đủ,…

Những tù nhân gián điệp sẽ theo dõi xem ai kích động, cầm đầu. Sau đó báo cáo với an ninh trại giam. An ninh trại giam sẽ căn cứ vào đó để kỷ luật biệt giam.

Nổi tiếng nhất là Phạm Văn Viết là buồng trưởng của buồng giam số 1, rồi một người tên Hái, quê Cao Bằng, trước đây ở cùng để theo dõi và giám sát anh Nguyễn Vũ Bình, sau này là Cha Lý. Ở buồng số 6 có ông Trung chuyên theo dõi tôi và những người khác.

Nói chung trong buồng giam thì anh em tù người Tây Nguyên và tù chính trị đều biết ai là người cộng tác với an ninh trại giam. Khi tôi vừa tới đó, những anh em Tây Nguyên đã nói nhỏ là phải cẩn thận khi nói chuyện với những người đó. Do vậy bọn tôi rất cẩn thận khi nói chuyện hay tranh luận với họ.

* NV: Bằng cách nào ông biết và phân biệt được họ là tù gián điệp?
-NVĐ: Thường thường những tù gián điệp Trung Quốc thì tự họ thừa nhận là họ đã từng bị Trung Quốc mua chuộc, rồi trở thành gián điệp lúc nào không biết. Có người thì thừa nhận rằng họ ý thức làm gián điệp cho Trung Quốc ngay từ lúc được tuyển mộ. Đa số là làm gián điệp vì tiền, chỉ có 1 hoặc 2 người làm gián điệp vì bất mãn.
* NV: Ông có thể kể tên tuổi về những người tù gián điệp và nếu có thể nhớ được về từng người không?
- NVĐ: Người có chức vụ cao nhất là ông Bản, năm nay ngoài 60 tuổi, nguyên là trưởng phòng tình báo của công an tỉnh Lạng Sơn, ông Hái, khoảng 70 tuổi cũng là trưởng phòng tỉnh báo của tỉnh Cao Bằng.
* NV: Ông được nghe kể gì về các câu chuyện, hay việc họ từng làm để bị bắt không?
-NVĐ: Thông thường những người bị Trung Quốc tuyển mộ thì trước đó họ thường trong vai những người làm ăn, buôn bán sang Trung Quốc để thị sát tình hình. Nhưng không rõ làm sao Cơ quan Phản gián Trung Quốc biết được, sau đó họ bắt giữ và tiến hành đe dọa, mua chuộc bằng tiền và gái đẹp. Kết quả cuối cùng là bị khống chế và trở thành gián điệp.

Những tù gián điệp cho biết rằng, khi cơ quan phản gián Trung Quốc mà mua chuộc thì không ai có thể cưỡng lại được. Bao nhiêu tiền cũng được chấp nhận, gái Trung Quốc cực xinh để cho những tù gián điệp thỏa mãn. Sau khi những người này được 'đánh' trở lại Việt Nam, họ có nhiệm vụ thu thập tất cả các thông tin về kinh tế, chính trị nội bộ của đảng CSVN từ trung ương đến địa phương, thông tin tôn giáo.

Thông tin về quan điểm đối ngoại của VN với các nước như với Mỹ, Nga, Nhật, EU, đặc biệt là Đài loan. Các thông tin về quân sự, đặc biệt là kế hoạch tác chiến, trang thiết bị, quân số phòng thủ của quần đảo Trường Sa với Trung Quốc là vô giá.
Họ cung cấp tiền và hướng dẫn những gián điệp này là cũng sử dụng tiền và gái đẹp để mua chuộc những người có chức vụ trong các cơ quan nhà nước để thu thập thông tin.

Một gián điệp tên là Tuấn kể chuyện anh ta đã dùng tiền, gái đẹp mua chuộc một số sĩ quan ở Học viên quân sự để mua các tài liệu giảng dạy của nhà trường. Kết quả là 3 sĩ quan cùng với nhóm gián điệp của anh bị bắt. Ngoài việc làm gián điệp, cơ quan phản gián Trung Quốc còn cung cấp tiền Việt Nam giả cho những người này mang về Việt Nam sử dụng. Vụ của Tuấn bị phát hiện do hành vi tiêu tiền giả rồi mới đến hành vi gián điệp.
* NV: Họ có kể cho ông nghe là được trang bị máy móc gì không (Máy quay phim, máy chụp hình, điện thoại, súng, điện đài truyền tin bí mật) khi làm gián điệp?
-NVĐ: Họ chỉ được trang bị máy chụp ảnh và máy quay đặc biệt.
* NV: Theo nhận xét của ông thì những người đó bị kết án nặng hay nhẹ?
-NVĐ:Theo tôi thấy, làm gián điệp cho Trung Quốc thường bị kết án khá nặng. Những người càng có chức vụ và làm việc ở các tỉnh biên giới thì mức án càng nặng. Tôi thấy có 5 gián điệp bị án chung thân, 1 người 26 năm, 2 người 19 năm, số còn lại từ 10 đến 18 năm.
Mỗi người bị bắt trong những hoàn cảnh khác nhau. Nhưng thông thường họ đã bị an ninh Việt Nam theo dõi trong một thời gian dài trước khi bị bắt. Phần lớn họ đều bị bất ngờ. Tôi không được nghe kể chi tiết về các vụ bắt giữ.
NV: Thưa ông, có ai trong số đó kể cho ông biết họ được Trung Quốc huấn luyện thế nào và trả tiền bao nhiêu không? Hay họ tự nguyện làm gián điệp cho Trung Quốc để đổi lấy quyền lợi nào khác?
-NVĐ:Rất ít người được Trung Quốc huấn luyện bài bản. Nhưng TQ đều hứa hẹn nếu bị bắt thì TQ sẽ can thiệp và mức án sẽ rất nhẹ. Khi bị lộ có thể chạy sang Trung Quốc và sẽ được đãi ngộ. Có một vài người họ biết bị lộ và biết sẽ bị bắt, nhưng họ cũng ko dám chạy sang Trung Quốc vì sợ bị thủ tiêu. Trung Quốc chỉ dạy họ cách dùng tiền và gái đẹp để mua chuộc quan chức thôi.
Như trên đã nói, đa số vì tiền, một số bị mua chuộc rồi bị ép buộc. Một số ít thì tình nguyện làm do có người thân lấy chồng hay lấy vợ bên Trung Quốc.
* NV: Ông thấy họ có thân nhân tiếp tế không?
-NVĐ: Phần lớn tù gián điệp có người thân tiếp tế, chỉ có vài người bị gia đình bỏ rơi do án tù quá dài, gia đình không có điều kiện. Có một số tù chính trị thương cho hoàn cảnh của họ nên mời họ ăn uống và sinh hoạt cùng.
* NV: Chúng tôi nghe ông kể là có tù gián điệp được cử làm trưởng buồng. Vai trò của trưởng buồng là gì? Có phải là theo dõi và báo cáo với quản giáo?
-NVĐ: Trại giam chỉ lựa chọn tù gián điệp và chỉ những người chấp nhận làm mật vụ cho an ninh trại giam mới được làm trưởng buồng. Hàng năm trại giam có tổ chức bầu cử trưởng buồng, nhưng khi tù nhân chính trị và tôn giáo lựa chọn người thường bảo vệ cho quyền lợi của họ thì không bao giờ trại giam đồng ý. Nên việc bỏ phiếu không có ý nghĩa gì.
* NV: Khi tù gián điệp được quản giáo dùng để trị tù chính trị, chắc là họ phải nhử bằng một quyền lợi nào đó (hứa hẹn thả sớm, được ưu đãi gì đó v.v…)?
-NVĐ: Tù gián điệp thường được được giảm án gấp đôi tù chính trị, những người làm mật vụ thì còn được giảm nhiều hơn. Nhưng những tù gián điệp mà quan hệ thân thiết với tù chính trị thì cũng bị giảm án ít hơn người khác. Tù gián điệp làm mật vụ có thể được giảm mỗi lần đến 12 tháng, những tù gián điệp khác thì từ 8-10 tháng. Còn tù chính trị cao nhất chỉ là 5 tháng.

* NV:Xin cảm ơn ông về cuộc phỏng vấn này!

Dân Làm Báo tiếp tục bị chính quyền Việt Nam đấu tố

30-9-12
Dân Làm Báo tiếp tục bị chính quyền Việt Nam đấu tố


Bản tin thời sự lúc 19 giờ tối, 30/09/2012 trên đài Truyền Hình Quốc Gia Việt Nam tiếp tục đấu tố Dân Làm Báo và các trang blog chính trị. (Youtube: DongHaiLongVuong)
http://danlambaovn.blogspot.com/2012/09/dan-lam-bao-tiep-tuc-bi-chinh-quyen.html

Ngày tận thế của kinh tế Việt Nam đang tới gần

30-9-12

Dự Đoán Kinh Tế - Ngày 28/09/2012, cơ quan xếp hạng tín dụng Moody’s tuyên bố đánh sụt hạng tín dụng 8 Ngân hàng TMCP của Việt Nam xuống hạng Caa1 và mức tín nhiệm quốc gia Việt Nam xuống mức B2.
Theo hãng Moody’s thì hạng Caa1 dành cho các NH TMCP nghĩa là ngân hàng đó có rủi ro tín dụng rất cao và suy đoán xếp hạng kém. (Cafef, 28/09/2012*)
Còn mức tín nhiệm quốc gia hạng B2 có nghĩa là có nguy cơ rủi ro tín dụng cao và chỉ suy đoán. (Cafef, 28/09/2012**)
Đó đồng thời cũng là thứ hạng thấp nhất dành cho Việt Nam từ trước tới nay. Đó cũng là thông điệp hãng Moody’s phát ra cho các nhà đầu tư vào Việt Nam: chỉ có ngu dại mới đi đầu tư vào xứ này để mất trắng.
Hơn nữa, vấn đề chính không phải là VN bị đánh sụt tín dụng. Cái này xưa rồi, nhàm chán.
Điều “mới” đây là 8 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI LỚN NHẤT VIỆT NAM, cùng lúc TÍN DỤNG QUỐC GIA BỊ XUỐNG ĐỊA NGỤC.
Như Mỹ từ AAA xuống AAA-, so what, who cares. Như anh học sinh từ 100 điểm xuống 99 điểm.
Nhưng VN bị xuống B2, tức là thua Angola (Ba3), Bangladesh (Ba3), Mông cổ (B1), Senegal (B1), Sri Lanka (B1), Trinidad (Baa1), Tunisia (Baa1). (Wikipedia)
Có tin mừng: bằng Cambodia!
Tại Á châu, VN thua Bangladesh, Mông cổ, Sri Lanka, thì coi như đội sổ, may là còn anh Cambodia đứng chung cho đỡ buồn.
VN ta hay chê các nước Phi châu là “mọi đen”.
Nay, TÍN DỤNG, tức mức độ tin cậy của đồng tiền, của nền KT, tài chánh, TRÁI PHIẾU, VN đều thua xa lắc các nước này!
BIG SHOW
Thứ 4 tuần sau (03/10/2012), 1:30 trưa giờ VN, Moody’s sẽ họp báo quốc tế, tuyên bố lý do vì sao họ đánh sụt tín dụng quốc gia Việt Nam.
Cuộc hội thảo quốc tế sẽ có hàng ngàn nhân vật quan trọng từ nhiều quốc gia tham gia, trong đó có Anh quốc, Mỹ, Singapore, Nhật, Ấn độ, TQ, Úc, Phi, Thái lan, Đài loan, Nam Hàn, v.v…
Đó chỉ tính các quốc gia Moody’s mở dây điện thoại miễn phí (tại Mỹ gọi miễn phí 1-877-941-8269, đánh password 4567420, lúc 2:30 sáng thứ 4, giờ miền Đông).
Người từ các quốc gia khác vẫn có thể gọi điện thoại vào, dùng Skype, Yahoo, v.v…
Vài lời Moody’s nói ra thì sẽ chấn động thị trường. WSJ sẽ chạy tin trang nhất ngay sáng thứ 4 giờ Mỹ.
Bloomberg sẽ không chịu kém, còn anh Ben Bland của Financial Times chắc chắn sẽ lẹ tay đánh máy ngay 1 bài phân tích thật hay, cho đăng lên FT kịp số báo sáng thứ 4, US Edition.
Wall Street sẽ nói rùm, hàng chục ngàn người đi máy bay sáng hôm đó sẽ với tay lấy tờ FT trên các chuyến bay quốc tế khắp 5 châu.
Ngồi trên máy bay, buồn, họ sẽ đọc thấy hết! Và chứng khoán Việt Nam sẽ sụt giá còn thê thảm hơn cả bây giờ.
PHẢI CỨU HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
Lý do Moody’s sẽ công bố thực ra không mới với bạn đọc tại đây đã theo dõi bài viết của chúng tôi trong thời gian qua.
Thứ tư tới đây, trong buổi họp báo quốc tế công bố kết quả phân tích tài chánh và lý do tại sao họ đánh sụt tín dụng VN, và 8 ngân hàng lớn, họ sẽ nói về việc “very high likelihood” CP VN sẽ phải cứu hệ thống ngân hàng, cụ thể là 8 ngân hàng trên.
Nếu các bạn còn nhớ, chúng tôi đã từng ghi rất rõ về việc này trước cả Moody’s RẤT LÂU.
Bây giờ chúng tôi sẽ tua lại những lý luận mà chúng tôi đã nói ra rả cả năm qua.
Hãy lấy con số được công bố: Dư nợ toàn quốc 3 triệu tỉ đồng, tiền lời 15%. (VnExpress, 21/06/2012)
Thật ra con số nợ cao hơn nhiều, và đố ai đi mượn với tiền lời 15%!
Nhưng TẠM cho là như vậy đi, thì hàng năm ngân hàng phải thu về 450 ngàn tỉ đồng tiền lời, tức 22 tỉ USD.
Đây là trọn 20% Tổng sản lượng quốc gia, do chính Việt Nam công bố (106 tỉ USD/ năm).
Cho dù số người, cty, tập đoàn mắc nợ đang làm ra 100% Tổng sản lượng quốc gia, thì cũng làm sao mà lời 20% để trả TIỀN LỜI cho số nợ, sau khi trả thuế, lương công nhân, mọi chi phí khác?
Tổng số các Con nợ, do đó, không thể nào trả nổi, và “ai đó” phải quỵt nợ mà thôi, rồi ngân hàng cộng tiền lời không thu được vào tiền vốn.
Do đó mà Tổng dư nợ tăng mạnh, cho dù nay hầu như không ngân hàng nào cho vay các số tiền lớn nữa. (Cafef, 28/09/2012***)
——————–
Và thật ra ngân hàng đã KHÔNG THỂ thu lại tiền lời cho đúng từ nhiều năm trước.
Khi đó, lẽ ra phải có LUẬT nghiêm minh cho phép:
(1) thu hồi nợ cho dù con nợ là cty, tập đoàn quốc doanh;
(2) nếu đã thu hồi nhưng vẫn bị insolvent, thì chính ngân hàng đó PHẢI bị dẹp.
Nhưng do CP Việt Nam bao che cho các cty, tập đoàn quốc doanh, nhiều số nợ xấu không thể được thu hồi, ví dụ tại VINASHIN.
Báo Quân đội Nhân dân, báo Nhân Dân, còn bênh tập đoàn này mạnh mẽ chỉ 1 tháng trước khi có vụ “bể nợ” với bên ngoại quốc. (QDND, 29/08/2010)
Khi đó, ai chỉ trích VINASHIN, thì dễ bị gán ghép vào điều 88 hình sự: Nói xấu nhà nước XHCN.
——————–
Trong nước, không 1 ngân hàng nào có thể đòi nợ VINASHIN. Họ chây lỳ không trả, cho dù hồi còn tiền bạc dư dã. Và làm gì có việc tịch thu tài sản phát mãi, vì đó là “tài sản XHCN”, ai dám đụng vào? (Vietstock, 27/08/2010)
Thế là ngân hàng đành cộng tiền lời vô tiền vốn, làm “sạch” sổ sách, và chính họ tự trả lương cho họ rất cao, vì họ vẫn tính như thu được số tiền lời không đòi được.
Các ngân hàng cho VINASHIN vay gần 100 ngàn tỉ đồng, tiền lời hàng năm có lúc 25 ngàn tỉ đồng, các ngân hàng tha hồ “chia lợi tức” trên số tiền lời này, cho dù không thu về 1 xu!
Quan chức ngân hàng giàu sụ, họ tự trả lương cho họ hàng tỉ đồng hàng tháng, chưa kể biết bao áp phe, tiền lót tay, các mánh mung làm ăn khác.
Và thế là nợ toàn quốc chồng chất lên nhau như núi, mỗi năm tăng mấy chục %, cho đến nay hơn Tổng sản lượng quốc gia đến 50%, tiền lời chiếm 20% GDP – theo con số chính thức.
——————–
Moody’s tính ra, làm như mới và hay lắm, gởi cho các top investors các tài liệu này.
Con số tôi có còn chính xác hơn Moody’s nhiều, do họ chỉ dùng các con số chính thức.
Con số tôi có, là nợ toàn quốc nay đã lên tới 3,75 triệu tỉ đồng, tức 187 tỉ USD. Thật ra KHÔNG do nợ mới, mà do tiền lời nợ cũ chồng chất lên.
Tiền lời THỰC TẾ không thể dưới 20% – báo đăng cho vay tiêu dùng nay 60% – tức là hàng năm 750 ngàn tỉ đồng, hoặc 37,5 tỉ USD, tiền lời, chiếm 45% GDP. (VTV, 27/09/2012)
GDP tôi có, chỉ khoảng 80-85 tỉ USD hàng năm mà thôi, làm gì trên 106 tỉ USD như công bố.
Và làm gì mà “tăng GDP 5%” trong năm nay. Giảm 10-20% thì có.
——————–
Nhưng cho dù dùng con tính của Moody’s, thì chắc chắn CP Việt Nam sẽ PHẢI in ra ít nhất 1 triệu tỉ đồng trả giùm cho các cty, tập đoàn quốc doanh, cứu ngân hàng.
Đó chỉ là cứu lửa gần, giúp ngân hàng khỏi sập ngay.
Sau đó sẽ tạo ra biết bao nhiêu hệ lụy kinh hoàng khác, LẠM PHÁT có thể lên tới mấy trăm %/ năm như hồi 1985.
Và trả giúp 1 triệu tỉ đồng, vẫn còn 2 triệu tỉ đồng (con số chính thức), tiền lời 15% tức 300 ngàn tỉ đồng, bằng khoảng 15 tỉ USD, tức 14% GDP chính thức.
Làm sao mà ngân hàng thu về số này đây?
Không thu về được, thì lại “đảo nợ”, tiền lời nợ cũng cộng vào vốn, thành nợ mới, LỚN HƠN.
Nợ cũ trả không nổi, làm sao trả nợ mới còn lớn hơn như vậy?
Nay đã QUÁ TRỄ để siết nợ, vì siết cái gì, chứng khoán, bất động sản?
Chứng khoán thì giá rẻ mạt, nếu siết chứng khoán, bán giải chấp, thì lại càng đè giá xuống vực sâu tối tăm.
Bất động sản không khá gì hơn, ngân hàng thu về các khu đất đang trồng cỏ, mất công thuê bảo vệ đừng cho đám xì ke vào chích choác, người mua bán dâm vào đó “hành sự”.
SIÊU LẠM PHÁT
Như vậy, chúng tôi đi trước mấy nước cờ, nhìn thấy tương lai KT Việt Nam.
CP Việt Nam sẽ PHẢI in tiền ra cứu ngân hàng, khoảng 1 triệu tỉ đồng, gây SIÊU LẠM PHÁT, dân chúng cực kỳ khổ sở.
Tổng dư nợ toàn quốc được ép xuống còn 2/3, tức 2 triệu tỉ đồng.
Rồi sau đó lại phải in tiền cực khủng đợt 2, do tổng dư nợ được ép xuống 2 triệu tỉ đồng vẫn còn quá cao, nợ xấu vẫn gia tăng – nhất là sau vụ in tiền khủng đợt 1 gây SIÊU LẠM PHÁT, kinh doanh càng khó khăn gấp bội.
Đợt 2, sẽ phải in ra thêm ít nhất 1,5 triệu tỉ đồng, do lúc đó nợ toàn xã hội đã lên lại, khoảng 2,5 triệu tỉ đồng.
Sau đó, tổng dư nợ toàn quốc còn 1 triệu tỉ đồng, coi như tạm cứu được ngân hàng, do số này thì có thể tịch thu tài sản, bán giải chấp, v.v… có thể thu hồi cho là 500 ngàn tỉ đồng.
Sau 2 đợt in tiền cực khủng như trên, LẠM PHÁT tại VN sẽ lên tới mấy trăm %/ năm.
Chỉ còn cách ĐỔI TIỀN, xóa sạch tiền cũ, in ra tiền mới. Ngoại quốc bỏ chạy hết – thật ra sau kỳ in ra cực khủng lần 1, họ đã bỏ chạy gần hết.
KT Việt Nam sau đó dù muốn dù không cũng sẽ phải khép kín như Bắc Hàn, vì cho dù có trải thảm bằng vàng thì cũng chẳng ai thèm vào đầu tư lấy 1 xu.
CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG
Số người, cty, tập đoàn đang mắc nợ chỉ sản xuất khoảng 1/2 hoặc ít hơn Tổng sản lượng quốc gia.
Trên 70% dân VN đang sống tại nông thôn. Đại đa số nhóm người này chưa từng bước chân vô “ngân hàng”. Họ chẳng biết gì về mượn tiền ngân hàng, trả lãi suất, v.v…
Đa số tại thành phố cũng không mượn được tiền trong ngân hàng, và VN hầu như không có “credit card”.
——————–
Do đó, số người, cty, tập đoàn, đang mắc nợ không làm sao trả nổi số 20% Tổng sản lượng quốc gia (GDP) chỉ cho TIỀN LỜI mà thôi.
Nếu họ làm ra 50% GDP, thì phải lời 4 đồng cho mỗi 10 đồng bán ra, chỉ để trả tiền lời!
Trừ có VINAMILK, còn lại hầu như không cty, tập đoàn, người kinh doanh, nào lời cỡ này.
Do đó, tính toàn hệ thống, thì hệ thống này BUỘC phải sập, không còn cách gì khác.
——————–
Ông Bùi Kiến Thành đưa ra ý kiến rất lạ: “CP cho vay lãi suất thấp, để ép giá lãi suất xuống”. (Vietstock, 27/09/2012)
Chiêu này hại chết KT Việt Nam, nhưng họ không mắc bẫy dễ dàng vậy.
CP lấy tiền đâu ra cho vay lãi suất thấp, vì lập tức sẽ có đơn xin vay, tổng cộng hàng chục triệu tỉ đồng!
Cụ thể, ít nhất là 3 triệu tỷ đồng cho tất cả những ai, cty, tập đoàn nào đang mượn nợ, vì họ đang trả hơn 15% tiền lời.
Mà 1 khi ấn định tiêu chuẩn cho vay tiền lời giá rẻ, thì lập tức có lo lót, hối lộ, do VN không có các cty định giá tín dụng độc lập (kiểu như Fitch, Moody’s, S&P), nên không có tiêu chuẩn độc lập nào.
Và nói nhỏ thế này, nếu lãi suất xuống thấp, thì dân rút tiền ra khỏi ngân hàng để làm việc khác, hoặc mua vàng, mua USD, khi đó lại gây thiếu vàng, thiếu USD, làm tăng giá USD.
Và dân rút tiền ra hàng loạt – do khi đó các cty mượn CP với tiền lời rẻ đi, các ngân hàng cho vay không được, phải hạ giá tiền lời xuống – thì đồng nghĩa với bank run, với ngân hàng mất thanh khoản, khi đó CP lại phải cứu, do các ngân hàng không đủ tiền trả lại cho dân rút ra hàng loạt.
Do đó, nhất là trong tình hình LẠM PHÁT trở lại (như Batman vậy, đi chút trở lại hoài), thì bắt buộc tiền lời phải CAO để tránh bank run.
Mà tiền lời cao thì như chúng ta thấy, gây nợ xấu, đình trệ sản xuất.
———————–
Tôi đã nói từ cách đây mấy năm: Bác sĩ giỏi là bác sĩ biết khi nào phải treo ống nghe, khuyên bệnh nhân về nhà từ giã gia đình, rồi chuẩn bị ra đi, lo hậu sự cho tốt.
Chứ không như câu chuyện kia, bệnh nhân gần chết rồi, ông bác sĩ còn cho toa mua 20 loại thuốc, chích mỗi giờ cả lít thuốc.
Con bệnh Kinh tế Việt Nam chắc chắn chết, vấn đề là khó coi thế nào?
Tin “CP Việt Nam in ra 1 triệu tỉ đồng cứu ngân hàng” mà tung ra, thì cả thế giới bò lăn ra cười nhạo Đảng Cộng sản Việt Nam, cười chê ông Dũng.
——————–
Jay Leno, David Letterman, dám soạn ra chương trình chọc cười trên TV dành riêng cho vụ này. Họ có thể đố thế này “1 triệu tỉ đồng có bao nhiêu số zero?” rồi hỏi khán giả. Sẽ cho người ra đường phố New York hỏi người đi đường – do diễn viên họ dàn dựng – làm trò cười lăn lóc cho dân Mỹ.
Mà cho dù Việt Cộng có ráng làm mặt dày giả bộ không nghe thấy, rồi thì sao?
BÀN TAY VÔ HÌNH của thị trường vẫn lạnh lùng làm việc, số tiền tung ra quá lớn, sẽ gây lạm phát cực khủng.
Nay đang có khoảng 130 tỉ USD bằng VND đang lưu hành, tức khoảng 2,6 triệu tỉ đồng. Nếu tung ra 1 triệu tỉ đồng cứu 1/3 tổng dư nợ, thì số tiền lưu hành sẽ tăng lên gần 1/3, giá trị VND sẽ rẻ đi 1/3.
USD sẽ tăng lên 27 ngàn VND, hàng hóa tăng từ 1/3 đến 2/3, do giá nguyên nhiên vật liệu, nhân công, đều phải tăng giá. Giá nhân công tăng ít nhất.
Thế giới lại có dịp cười bò lăn khi từ lúc đặt hàng đến giao hàng, giá khác đi rồi. Ví dụ xe chạy từ Nam ra Bắc chịu giá 10 triệu đồng, khi ra tới Bắc thì giá lên 13 triệu, bên thuê phải trả thêm 3 triệu, do chủ xe đổ xăng dọc đường đều bị lên giá.
Chưa tới mức “uống xong ly cà phê, giá tăng rồi” như bên nước bạn Hungary thuở nào, nhưng sau kỳ in tiền đại quy mô lần 2 (xem bài trên đây), thì có thể lắm.
Giá lên như vậy, làm mọi người không yên tâm, ai cũng muốn nâng giá hàng mình lên “cho chắc ăn, vì bên ngoài ai cũng lên giá”, vì sợ bán rồi mua lại không được giá bán.
Thế là do SPECULATION, giá lên hơn tỉ lệ tiền tung ra, ví dụ giá VND rẻ đi 1/3, nhưng giá hàng hóa lại tăng lên 2/3 hoặc 3/3 tức 100%.
KHÔNG LỰC NÀO CẢN NỔI GIÁ LÊN, một khi CP VN bị buộc phải in tiền ra cứu ngân hàng, như Moody’s đã cho biết và sẽ cho biết rõ hơn vào thứ 4 tới đây, lúc 2:30 trưa giờ VN, tức 1:30 sáng thứ 4 giờ Đông bộ Hoa kỳ.
————————–
Danh sách 8 ngân hàng TMCP Việt Nam bị đánh sụt hạng tín dụng là ACB, BIDV, Sacombank, Techcombank, Vietinbank, VIB, Quân đội (MB) và SHB.
Cafef, Moody’s hạ bậc xếp hạng năng lực tín dụng của 8 ngân hàng TMCP, 28/09/2012*,http://cafef.vn/20120928022026379CA34/moodys-ha-bac-xep-hang-nang-luc-tin-dung-cua-8-ngan-hang-tmcp.chn
Cafef, Moody’s hạ xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam xuống mức B2, 28/09/2012**, http://cafef.vn/20120928014310986CA34/moodys-ha-xep-hang-tin-nhiem-cua-viet-nam-xuong-muc-b2.chn
Wikipedia, List of countries by credit rating – Moody’s, http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_credit_rating#Moody.27s
Dự đoán kinh tế Việt Nam, Hầu hết các ngân hàng tại Việt Nam đã phá sản, 11/09/2011,http://dudoankinhte.wordpress.com/2011/09/11/h%E1%BA%A7u-h%E1%BA%BFt-cac-ngan-hang-t%E1%BA%A1i-vi%E1%BB%87t-nam-da-pha-s%E1%BA%A3n/
Dự đoán kinh tế Việt Nam, Bơm tiền nuôi những cục cưng ốm yếu, 16/02/2012, http://dudoankinhte.wordpress.com/2012/02/16/bom-tien-nuoi-nhung-cuc-cung-om-yeu/
Dự đoán kinh tế Việt Nam, Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phá sản, 17/02/2012, http://dudoankinhte.wordpress.com/2012/02/17/he-thong-ngan-hang-vn-da-pha-san/
Dự đoán kinh tế Việt Nam, Dân Việt Nam sắp thành tỉ phú, 20/06/2012, http://dudoankinhte.wordpress.com/2012/06/20/dan-vn-sap-thanh-ti-phu/
VnExpress, 151.000 tỷ đồng vốn ngân hàng cho bất động sản, 21/06/2012, http://ebank.vnexpress.net/gl/ebank/tin-tuc/2012/06/151-000-ty-dong-von-ngan-hang-cho-bat-dong-san/
Cafef, Tiền đang chảy đi đâu, 28/09/2012***, http://cafef.vn/20120928112323476CA34/tien-dang-chay-di-dau.chn
Quân đội nhân dân, Không thể phủ nhận vai trò kinh tế Nhà nước, 29/08/2010, http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/5/5/5/122323/Default.aspx
Vietstock, Khoanh và giãn nợ cho Vinashin đến hết năm 2011, 27/08/2010, http://vietstock.vn/2010/08/khoanh-va-gian-no-cho-vinashin-den-het-nam-2011-768-164519.htm
Vietstock, TS Bùi Kiến Thành: NHNN có thể chỉ đạo cho vay với lãi suất 6-7%, 27/09/2012, http://vietstock.vn/2012/09/ts-bui-kien-thanh-nhnn-co-the-chi-dao-cho-vay-voi-lai-suat-6-7-757-241028.htm
VTV, Lãi suất vay tiêu dùng tới … 60%/năm, 27/09/2012, http://www.vtv.vn/Article/Get/Lai-suat-vay-tieu-dung-toi-60nam—-b58895042b.html
Dự Đoán Kinh Tế

Đã là giáo dục, không thể mập mờ.

09/28/2012 - 01:19 — canhco Câu chuyện giáo dục tại Việt Nam càng nghĩ càng buồn, càng nghĩ càng bế tắc và tuyệt vọng. Từ bậc đại học cho tới những ê a vỡ lòng, nơi nào cũng xuất hiện những khó khăn khiến ai có lòng tốt cách mấy đối với tiền đồ giáo dục cũng phải xuôi tay mặc cho dòng nước đục bẩn của hệ thống kéo theo cơ man là rác rưởi của một nền giáo dục ăn xổi ở thì, chụp gấu vá vai từ con chữ tới lời thầy cô giảng bài trong từng tiết học. Tình trạng hấp hối của chính sách giáo dục kéo dài đã rất lâu và ông Bộ trưởng nào mới lên ngồi trên chiếc ghế lỏng lẻo và đầy rệp này cũng phải nhảy dựng lên. Trước là kêu gọi cải cách, sau là nói không với cái này, cái khác. Rồi cũng có ông yêu cầu xã hội hóa như một cục đá dằn phía sau chiếc bánh xe khi nó đang tụt dần về phía sau. Xã hội hóa không làm nó tiến lên dù là một phân tây. Nhưng nói như Khổng Tử thì: "Sự học như con thuyền trên gióng nước ngược, không tiến ắt lùi". Tiến chắc chắn là không, còn lùi thì đã và đang từng chút một tuột trên con dốc đầy sỏi đá. Cũng may là con đường chứa quá nhiều ổ gà lẫn sạn sỏi nên cổ xe được chúng trì kéo giảm bớt độ tuột. Những ổ gà mua ghế, mua chỗ đứng lớp, những viên sạn dạy thêm học thêm đã ghì chặt lấy nhau để sống còn trên cơ thể hấp hối của một nền giáo dục lấy chỉ tiêu làm lý tưởng và bất cứ kêu rêu đóng góp nào của xã hội đều được nhìn dưới lăng kính nghi ngờ, khó chịu. Khi phản biện ngày càng nhiều về nguyên nhân dẫn đến tình trạng kiệt quệ của giáo dục hiện nay xuất phát từ đồng lương trả cho người trực tiếp đứng lớp không tương xứng thì Bộ Giáo dục giả lơ, Sở Giáo dục các thành phố vì gần dân nên phải đối phó. Biện pháp đối phó được đưa ra rất nhiều nhưng nhìn chung chỉ toàn là..."đối phó" nên giáo viên các trường công lập tiếp tục tự tìm cho mình con đường sống còn trên cái nền nhà giáo dục ấy. Có một điều rất bất thường khi phụ huynh học sinh càng than phiền về chất lượng giảng dạy cũng như đổ ập lên đầu con em họ quá nhiều bài học vô bổ thì không ít trường đối phó theo chiều ngược lại: Yêu cầu phụ huynh đóng góp tiền cho sự nghiệp giáo dục lẽ ra phải được nhà nước chu toàn này. Các loại phí nếu thẳng thừng tính ra thì danh sách có thể dài hơn một trang giấy. Danh sách này lại chứa không ít các khoảng tiền vô lý đến độ nhiều phụ huynh học sinh muốn cho con em mình nghĩ học luôn để chống đối. Ức thì nói vậy nhưng tâm lý xã hội Việt Nam có cha mẹ nào muốn con mình dang dở việc học ngoại trừ quá nghèo. Tâm lý ấy được nhiều ông bà hiệu trưởng nắm rõ và khai thác nên mặc dù có thu thêm bao nhiều thì con số học sinh theo học không bao giờ giảm xuống. Làm ăn mà biết chắc khách hàng không thể bỏ mình để đi chỗ khác là nét ưu việt của Xã hội chủ nghĩa mà trong doanh trường người ta nói đó là thủ đoạn độc quyền. Cái thủ đoạn này lại được cơ quan đầu não là Bộ Giáo dục ủng hộ một cách rất..."thủ đoạn"! Trên nguyên tắc Bộ không cho phép nhà trường thu tiền thêm của học sinh bất cứ dưới hình thức nào ngoại trừ họ..."tự nguyện". Sở Giáo dục và Đào tạo các thành phố công khai cho biết việc huy động và tiếp nhận các khoản đóng góp đều được dựa trên nguyên tắc tự nguyện của hai bên… Để vở tuồng "tự nguyện" xem có vẻ thật hơn, hiệu trưởng các trường thi nhau nghĩ ra những cách thức để dẫn dắt các khoản thu hết sức hợp lý nhằm thuyết phục những ai còn nghi ngờ thiện chí của nhà trường trong vần đề chi thu. Và một điều đau lòng nhất là các hiệu trưởng này không do dự khi giao trách nhiệm thu ..."hụi chết" này cho các giáo viên chủ nhiệm. Số tiền phụ thu "tự nguyện" được hiệu trưởng toàn quyền chi vào những mục tiêu mà ông hay bà ta thấy cần thiết. Thường là sửa chữa lại cơ sở thiết bị và các tay trúng thầu không nói ai cũng biết là đồng minh của họ để hóa đơn có thể tăng lên đột biến các khoản mua sắm. Vấn đề tiền lương của giáo viên nếu được hỏi thì họ đã có sẵn hàng trăm câu trả lời và thường thấy nhất là Bộ không cho phép lấy tiền tự nguyện để góp vào lương cho giáo viên. "Lợi ích nhóm trong giáo dục" không phải khó thấy. Bắt đầu từ sự tập quyền cuả hiệu trưởng sau đó được phân phát rất công bình cho các đương sự trách nhiệm của Sở Giáo dục cũng như thanh tra...bộ máy chạy đều từ năm này sang năm khác mà chưa bao giờ gặp trục trặc kỹ thuật nào. Lạm thu trong nhà trường không bao giờ được Bộ giáo dục chú ý vì đây là bổng lộc mà Bộ muốn các trường tự trang trải cho mình. Im lặng thì trái đạo lý, vậy thì cứ lên tiếng "tự nguyện hóa" những đóng góp bắt buộc này cho hợp với lòng...hiệu trưởng... Thế mới thấy tại sao trong khi giáo viên cứ một mực than thở lương không đủ sống thì giá tiền mua một chiếc ghế hiệu trưởng lại không bao giờ "khuyến mãi". Cha mẹ học sinh cứ trằn trọc với túi tiền ngày một teo lại theo tỷ lệ lùn kiến thức của con mình và Bộ Giáo Dục vẫn lạc quan về tương lai sáng lạn của một nền giáo dục xã hội chủ nghĩa toàn bích. Những trớ trêu nghịch lý này vẫn ngày ngày nện những câu hỏi lên lương tâm của một người tỉnh táo. Không lẽ cả nước đều mất trí trước sự thật này chăng? Thế mới thấy sự kinh khủng của hệ thống giáo dục định hướng theo quyền sinh sát của những ông bà hiệu trưởng được nuôi dưỡng, bảo kê bởi Bộ Giáo dục nhưng bộ này lại rất phản lại nguyên lý giáo dục phổ cập trên toàn thế giới. * canhco's blog http://www.rfavietnam.com/node/1350

Trách nhiệm toàn dân

9-2012
Chủ nghĩa xã hội đề cao sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể do đó "trách nhiệm" cũng không ngoại lệ. (Facebook Nhật Ký Yêu Nước)

Saturday 29 September 2012

Chuyện 16 tấn vàng của VNCH và nỗi oan 30 năm của ông Thiệu

Chuyện 16 tấn vàng của VNCH và nỗi oan 30 năm của ông Thiệu

16 tấn vàng là ngân khoản dự trữ của chính phủ Việt Nam Cộng hòa cất trong Ngân hàng Quốc gia vào thời điểm tháng 4 năm 1975, khoảnh khắc cuối cùng của sự tồn tại của nhà nước Việt Nam Cộng hòa. Số vàng này gồm 1.234 thôi, trị giá 220 triệu đô-la Mỹ theo tỷ giá vào thời điểm đó.

Ảnh minh họa. Nguồn Vtm.vn
16 tấn vàng này gắn liền với tên tuổi tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong giai đoạn cuối cùng của chế độ, người đã phải chịu một tin đồn tai tiếng kéo dài suốt hơn 30 năm.
Bối cảnh
Vào tháng 3 và tháng 4 năm 1975, các tuyến phòng thủ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa liên tục sụp đổ trước cuộc tổng tấn công của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Trong khi đó, Quốc hội Mỹ từ chối đề nghị của Chính phủ Mỹ về việc viện trợ quân sự khẩn cấp cho Việt Nam Cộng hòa. Chính quyền này đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn.
Kế hoạch đem 16 tấn vàng ra nước ngoài
Để cứu vãn sự sụp đổ hoàn toàn hay ít ra cũng làm chậm nó, từ đầu tháng 4, khi hy vọng được Mỹ viện trợ khẩn cấp đã gần như không còn, Nguyễn Văn Thiệu đã lập một kế hoạch khác để vay tiền cho Việt Nam Cộng hòa. Ông cử ngoại trưởng Vương Văn Bắc bay sang Saudi Arabia, đề nghị quốc vương Haled tiếp tục đồng ý cho Việt Nam Cộng hòa vay tiền như phụ vương của ông ta (vua Faisal) đã hứa trước khi bị hạ sát. Nhưng để đạt được giải pháp tài chính nhanh hơn nữa, Nguyễn Văn Thiệu cử tổng trưởng kế hoạch Nguyễn Tiến Hưng ngày 15 tháng 4 bay sang Mỹ để cùng ngoại trưởng Vương Văn Bắc xúc tiến vận động hành lang để vay 3 tỉ USD từ chính phủ Mỹ, với 4 khoản thế chấp là tài nguyên dầu hỏa và nông nghiệp của Việt Nam Cộng hòa, số tiền mấy trăm triệu USD mà quốc vương Haled hứa cho vay, và 16 tấn vàng dự trữ đang nằm trong hầm của Ngân hàng Quốc gia ở bến Chương Dương. [1] Theo ông Nguyễn Tiến Hưng, thư ông Thiệu gửi Tổng thống và Quốc hội Hoa Kỳ có đoạn: “Tôi trân trọng thỉnh cầu Ngài kêu gọi Quốc hội cho Việt Nam Cộng hòa vay dài hạn 3 tỷ đô la, chia làm ba năm, lãi suất do Quốc hội ấn định, và xin triển hạn 10 năm trước khi trả vốn và lời. Tài nguyên dầu hoả và canh nông của Việt Nam Cộng hòa sẽ dùng làm tiền thế chân cho món nợ này. Món nợ giúp chúng tôi chống xâm lăng và cho chúng tôi cơ hội để tồn tại như một quốc gia tự do. [2]
Cũng từ đầu tháng 4, ông Nguyễn Tiến Hưng đã đề nghị giải pháp dùng vàng dự trữ để mua vũ khí cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa như là “nỗ lực phòng thủ cuối cùng” và đề xuất các phương pháp chuyển tiền ra nước ngoài. Số vàng dự trữ lúc đó còn 16 tấn, trị giá khoảng 220 triệu USD (theo giá vàng lúc đó)[3] được giao cho Thống Đốc Ngân Hàng Quốc Gia Lê Quang Uyển phụ trách chuyển ra ngoại quốc để thế chấp. Ông Uyển lập tức liên lạc với các hãng hàng không TWA, Pan Am và Hãng bảo hiểm Lloyd’s ở London. Nhưng thông tin bị lộ ra ngoài. Ngày 5 tháng 4, một số tờ báo nước ngoài đã bắt đầu đăng tải những bản tin sốt dẻo đó, với sự ám chỉ về một âm mưu chiếm đoạt của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. [4] Các tờ báo lớn có phóng viên thường trú tại Sài Gòn đưa tin “tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chuẩn bị mang 16 tấn vàng ra khỏi Việt Nam”. Không chỉ BBC, AP, mà nhiều tờ báo khác như Los Angeles Times lúc đó cũng đăng tin. Báo chí Việt Nam Cộng hòa cũng đưa tin về sự kiện này. Tờ Chính Luận ngày 16-4 đăng tuyên bố của phát ngôn viên chính phủ: “Hoàn toàn là tin thất thiệt, đầy ác ý, cố ý bôi lọ”. và: “Tình trạng loan tin thất thiệt và cố ý bôi lọ của các hãng thông tấn và báo chí ngoại quốc loan đi không phải mới xảy ra mà đã kéo dài từ lâu”[5].
Kế hoạch chuyển vàng đi Thụy Sĩ vì thế đã bị vỡ. Các hãng hàng không và bảo hiểm quốc tế từ chối phi vụ này vì sợ bị dư luận chỉ trích.
Đại sứ Mỹ Martin can thiệp để giúp chuyển vàng đi. Để hy vọng làm tan đi mối nghi ngờ xung quanh vụ việc, Martin thuyết phục Nguyễn Văn Thiệu gửi vàng vào Ngân hàng Dự trữ Liên bang tại New York (Federal Reserve Bank of New York), nơi nhiều nước khác cũng gửi tài sản. Nguyễn Văn Thiệu đồng ý.
Ngày 16 tháng 4, đại sứ Martin đã điện về Washington xin một chuyến bay quân sự đặc biệt được bảo hiểm để chở số vàng đó đi New York. Nhưng không quân Mỹ và Ngân hàng dự trữ liên bang New York đã không dễ dàng tìm được hợp đồng bảo hiểm cho một khối tài sản lớn như thế từ một nước đang có chiến tranh. Cuối cùng thì vấn đề bảo hiểm cũng được dàn xếp xong. [3]. Sáng ngày 25 tháng 4, một chiếc máy bay quân sự từ căn cứ Clark (Philippines) đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất tại Sài Gòn, sẵn sàng bốc 16 tấn vàng ra khỏi Việt Nam.
Kế hoạch bất thành
Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của Xuân Lộc – tuyến phòng thủ cuối cùng cho Sài Gòn, người đưa ra quyết định chuyển vàng ra nước ngoài là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã phải từ chức do sức ép lớn từ Mỹ, Pháp khi họ muốn tìm kiếm một giải pháp cứu vãn Việt Nam Cộng hòa bằng thương lượng. Dù ông Thiệu đã từ chức không còn quyền hành gì, nhưng nhiều người vẫn không muốn sự có mặt của ông tại Sài Gòn trong những ngày căng thẳng đó. Tân tổng thống Trần Văn Hương khuyên ông nên sớm rời khỏi Việt Nam.
Đêm 25 tháng 4, với sự hộ vệ của các nhân viên CIA Mỹ[6], cùng với cựu thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Văn Thiệu ra đi với tư cách là đặc sứ của Việt Nam Cộng hòa đến Đài Bắc để phúng điếu Tưởng Giới Thạch (qua đời ngày 5 tháng 4). Ông không còn quyền lực gì đối với 16 tấn vàng khi đó vẫn nằm nguyên trong hầm chứa của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Còn dư luận thì vẫn bán tín bán nghi về tin đồn tổng thống mang vàng đi, dù đã có tuyên bố cải chính của chính phủ Việt Nam Cộng hòa ngày 16 tháng 4. [5]
Khi Nguyễn Văn Thiệu hết quyền Tổng thống, những người có thẩm quyền lúc đó đã không chịu làm theo ý ông Thiệu nữa. Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Văn Hảo, cựu phó thủ tướng đặc trách sản xuất kiêm tổng trưởng canh nông và kỹ nghệ thời chính phủ Nguyễn Bá Cẩn, lúc đó là người giữ liên lạc giữa chính quyền Sài Gòn và sứ quán Mỹ, hoàn toàn không muốn chuyển 16 tấn vàng ra khỏi Việt Nam[7].
Trong Hồ sơ mật dinh Độc Lập, tác giả Nguyễn Tiến Hưng viết: Nguyễn Văn Hảo vào gặp tổng thống Trần Văn Hương và dọa rằng: “Nếu tổng thống cho phép chuyển số vàng ấy ra ngoại quốc thì trong trường hợp tướng Minh (tức ông Dương Văn Minh) lên thay, tổng thống sẽ bị lên án là phản quốc!”. Ông Hương đồng ý giữ vàng lại. Sáng ngày 24 tháng 4 (một ngày trước khi ông Thiệu rời Việt Nam), ông Hảo điện cho cố vấn kinh tế đại sứ quán Mỹ Denny Ellerman, nói rằng: tổng thống Trần Văn Hương đã quyết định hoãn vô thời hạn việc chuyển vàng ra khỏi Việt Nam, cho đến khi một chính phủ mới được thành lập.[8]
Đại sứ Martin bất ngờ trước tin này, nhưng ông không cố gắng thuyết phục tổng thống Hương hủy bỏ lệnh ấy mà quyết định tạm để vàng ở lại vì nó có thể nâng cao vị thế của chính phủ Việt Nam Cộng hòa khi thương lượng với phe Cộng sản. Ông lệnh cho chiếc máy bay tiếp tục đợi cho đến nửa đêm ngày 27 tháng 4.[8] Trả lời phỏng vấn TS Nguyễn Tiến Hưng ngày 27 tháng 3 năm 1985, Martin kể: “Vào lúc chót, tôi có nghĩ đến việc liên lạc với người bạn cũ ở Thái Lan là tư lệnh không quân Dhawee Chulasapaya. Sau đó, kêu gọi thêm một số thủy quân lục chiến Thái Lan bay qua Sài Gòn để giải phóng số vàng, mang nó đi. Nhưng chỉ nghĩ thế thôi… Vàng vẫn còn lại ở đó”.
Ngày 27 tháng 1 năm 1976, cựu đại sứ Martin đã giải trình trước Quốc hội Mỹ về chuyện 16 tấn vàng:
…Những sắp xếp tạm thời đã được thực hiện để chuyển số vàng dự trữ của VN cộng hòa sang Ngân hàng Bank of International Settlement (BIS) ở Basel bên Thụy Sĩ nhằm có thể làm thế chấp cho một khoản vay mua đạn dược tại châu Âu. Khi tin này lộ ra thì không có cách nào chở vàng đi bằng đường hàng không thương mại được nữa.
Bởi vậy đã có những sắp xếp tiếp theo để chuyển nó sang tài khoản (của VN cộng hòa – NV) tại Ngân hàng Dự trữ liên bang New York.
Chẳng may, đang khi có sự chậm trễ về phía Hoa Kỳ trong việc tìm kiếm nguồn bảo hiểm (cho việc chuyên chở số vàng) thì tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra đi. Ông phó thủ tướng (Nguyễn Văn Hảo) và tổng trưởng tài chính đã không xin được phép của tân tổng thống (Trần Văn Hương) để chuyển số vàng này đi…“. [2]
Tiếp quản sau sự kiện 30 tháng 4
Theo phóng sự điều tra của báo Tuổi Trẻ [9], ngày 2 tháng 5, cựu Phó Thủ tướng VNCH Nguyễn Văn Hảo gặp lãnh đạo Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn – Gia Định, ông trình bày chi tiết về câu chuyện liên quan đến 16 tấn vàng và đề nghị Ủy ban quân quản tiến hành tiếp quản và kiểm kê ngay.[10]
Cũng theo báo Tuổi Trẻ [9], ông Hoàng Minh Duyệt, chỉ huy phó đơn vị tiếp quản Ngân hàng Quốc gia, nói về những nhân viên bảo vệ ngân hàng của chế độ cũ “đã không rời vị trí vì nhiệm vụ của họ là bảo vệ an toàn kho tiền và vàng dự trữ, không để nó bị xâm nhập, cướp phá giống như nhiều tòa nhà và trụ sở lân cận. Họ giữ vị trí cho đến khi những người lính giải phóng xuất hiện”.
Cũng theo báo Tuổi trẻ, các ông Huỳnh Bửu Sơn, Lê Minh Kiêm là các nhân chứng trực tiếp bàn giao vàng cho chính quyền mới. Đầu tháng 6 năm 1975, Huỳnh Bửu Sơn, người giữ chìa khóa kho vàng, và Lê Minh Kiêm, người giữ mã số của các hầm bạc được lệnh của Ban Quân quản Ngân hàng Quốc gia cùng đơn vị tiếp quản tiến hành kiểm kê các kho tiền và vàng của chế độ cũ. Số tiền và vàng nằm trong kho khớp đúng với sổ sách từng chi tiết nhỏ.
Ông Huỳnh Bửu Sơn kể về cuộc kiểm kê kho vàng lần cuối cùng khi bàn giao cho chính quyền mới:[11] Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi.
Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau… Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả số vàng thoi và tiền vàng cổ đều được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán của ngân hàng theo dõi định kỳ hằng tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho.
Tai tiếng của Nguyễn Văn Thiệu

Từ đầu tháng 4 năm 1975, khi Nguyễn Văn Thiệu vẫn còn tại vị, một số tờ báo nước ngoài đã bắt đầu đăng tải tin về kế hoạch chuyển 16 tấn vàng ra nước ngoài với sự ám chỉ về một âm mưu chiếm đoạt của ông. Báo chí Việt Nam Cộng hòa cũng đưa tin về sự kiện này. Tuy có báo đăng tuyên bố cải chính của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, nhưng sau khi ông Thiệu đã ra đi, ngày 28 tháng 4, báo Độc Lập khác của Việt Nam Cộng hòa đăng một bản tin về chuyến ra đi của ông Nguyễn Văn Thiệu với chi tiết: “Tin Reuters ghi nhận liền sau khi đoàn người Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng xuống phi cơ và được đưa vào phòng khách danh dự, một số hàng hơn 10 tấn cũng đã được cất xuống theo”.[5] Các báo chí viết tường thuật nói ông Thiệu đã bỏ trốn với một số lượng vàng lớn lấy đi từ ngân khố của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. [12].
Trong hồi ký “Đại thắng mùa xuân”, Đại tướng Văn Tiến Dũng khẳng định Nguyễn Văn Thiệu đã mang 16 tấn vàng ra khỏi Việt Nam[13].
Theo Việt Báo [14], trong suốt 26 năm từ năm 1975 cho đến khi ông Thiệu qua đời, Hà Nội vẫn “rêu rao dựng đứng tin tổng thống Thiệu ra đi mang theo 16 tấn vàng ông đã vơ vét”. Ngay cả khi tổng thống Nguyễn Văn Thiệu qua đời, báo Thanh Niên, báo Nhân Dân, và các cơ quan truyền thông của Việt Nam “vẫn công nhiên lôi chuyện 16 tấn vàng để bôi nhọ tổng thống Thiệu”.
Còn theo báo Tuổi Trẻ, “có quá ít tài liệu trong nước đề cập một cách chính xác và đầy đủ về chuyện này sau năm 1975″, cũng theo tờ báo này, “Trong một cuốn sách khá nổi tiếng[15] đã được tái bản khá nhiều lần trong hơn 20 năm qua (ở Việt Nam), người ta đọc được một đoạn “có vẻ chắc chắn” như sau: “Thiệu và Khiêm đáp máy bay rời Sài Gòn sang Đài Loan, nơi anh ruột của Thiệu đang còn làm đại sứ (tức ông Nguyễn Văn Kiểu). Thiệu mang theo năm vali chứa đầy đôla. Trước đó, Thiệu đã mướn một chiếc máy bay chở hành khách cỡ lớn của Mỹ, đưa khỏi Việt Nam 17 tấn vàng bạc, châu báu, tài sản quí mà gia đình y đã vơ vét được sau hai nhiệm kỳ làm tổng thống””[5].
Theo Luật sư Lê Công Định[16], từ sau năm 1975, “rất nhiều ấn phẩm trong nước đã thay nhau đổ tội và kết án ông trong “vụ án” bịa đặt này với những “bằng chứng” chắc chắn như thể chính các tác giả đều tận mắt trông thấy”.
Mọi nguồn thông tin đều không bênh vực cho ông Thiệu, ông ra đi mang theo một cái án là kẻ ăn cắp tài sản quốc gia.
Trong nhiều năm sau chiến tranh, những người biết rõ số phận của 16 tấn vàng tại các cơ quan chức năng nhà nước đã không đính chính tin đồn. Sau này, khi thông tin đã được phổ biến rộng rãi qua loạt phóng sự điều tra của báo Tuổi Trẻ. Khi được hỏi tại sao lâu nay Nhà nước Việt Nam không đính chính, ông Lữ Minh Châu, cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trả lời: “Mình biết rất rõ là số vàng đó vẫn còn, đã được kiểm kê cẩn thận và đưa vào tài sản quốc gia, nhưng không đính chính vì đó là tin đồn đăng trên báo chí, có ai đặt câu hỏi chính thức với Nhà nước đâu”. [17]
Giải oan
Sau hơn 30 năm, tháng 12 năm 2005 hồ sơ mật được phép giải mã, chính phủ Anh công bố Hồ sơ Bộ Ngoại giao trong đó có phần nói về chuyện vị lãnh đạo của chính quyền Việt Nam Cộng hoà chuyển sang sống tại khu ngoại ô của London như thế nào. Tuy nhiên, hồ sơ này không nói đến số vàng nào được ông Thiệu mang tới Anh.[12]
Trả lời phỏng vấn BBC ngày 29 Tháng 12 năm 2005[12], Cựu Tổng trưởng Kế hoạch Nguyễn Tiến Hưng nói rằng số tiền vàng này chưa mang ra khỏi Việt Nam, nhưng ông không phải là nhân chứng của vụ việc.
Dư luận nhân dân đặt câu hỏi về việc ông Thiệu có mang vàng ra ngoài hay không và nếu không thì giờ ở đâu.[5]
Trong loạt phóng sự điều tra được đăng từ ngày 26 tháng 04 năm 2006, báo Tuổi Trẻ đã phỏng vấn các nhân chứng trực tiếp liên quan đến 16 tấn vàng, làm rõ rằng cựu Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu không “đánh cắp” số vàng này. Tuy nhiên, ông đã qua đời từ trước đó, vào năm 2001.
Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, số lượng tiền vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách từng chi tiết nhỏ.[1]
Về tai tiếng của Nguyễn Văn Thiệu, Luật sư Lê Công Định viết: “tìm ra tận cùng của sự thật, báo Tuổi Trẻ đã làm được một việc thiện xét từ góc độ lương tri”.[16]
Thông tin thêm
Theo Báo Tuổi Trẻ, Wikipedia (không nêu rõ phiên bản nào của Wikipedia ngôn ngữ nào) đã viết những thông tin “giật gân” rằng :
Martin (đại sứ Mỹ tại Sài Gòn – NV) giúp gia đình Thiệu ra đi, nhưng chỉ cho mang theo đồ vật cá nhân nhỏ. Thế là tay cựu tổng thống và bà vợ phải tính đến cách khác. Mai Anh (vợ Thiệu) đã xoay xở lấy được 16 tấn vàng ra khỏi ngân hàng quốc gia bằng cách ép dọa thuộc cấp. Bà ta cho chuyển phần lớn số vàng thỏi ấy lên một chiếc máy bay thuê của Hãng hàng không Thụy Sĩ. Nhưng các phi công, sau khi khám phá ra đó là vàng, đã hỏi sứ quán Thụy Sĩ và cuối cùng từ chối không chở nữa. Lý Long Thân (chồng em nuôi vợ Thiệu) nhảy vào cứu nguy. Thân ra lệnh chở vàng bằng tàu Trương Tinh đi Pháp, để sau này Thiệu nhận lại ở đó“. [5]
Bảng kê thoi vàng đựng trong các tủ sắt
Hầm số 3
Tủ số 40: 80 thoi
Tủ số 41: 80 thoi
Tủ số 42: 80 thoi
Tủ số 43: 80 thoi
Tủ số 44: 80 thoi
Tủ số 45: 80 thoi
Tủ số 46: 80 thoi
Tủ số 47: 73 thoi
633 thoi
Hầm số 6
Tủ số 202: 35 thoi
Tủ số 203: 80 thoi
Tủ số 204: 80 thoi
Tủ số 205: 80 thoi
Tủ số 206: 79 thoi
Tủ số 207: 89 thoi
Tủ số 215: 88 thoi
Tủ số 216: 70 thoi
601 thoi
Tổng cộng: 1.234 thoi vàng
(Nguồn: Nha Phát hành, tháng 4-1975)[11]
________________________________________________________________________________________
  1. ^ Báo Tuổi Trẻ, Kỳ 3: Không có ánh sáng cuối đường hầm
  2. ^ a b Nguyễn Tiến Hưng – nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch của chế độ VNCH, Khi đồng minh tháo chạy, chương 12,13
  3. ^ a b Frank Snepp, Decent Interval, Penguin Books Ltd. 1980, tr. 298
  4. ^ Báo Tuổi Trẻ, Kỳ 4: Kế hoạch bí mật từ dinh tổng thống, 29/04/2006 truy cập được đến ngày 7/12/2007
  5. ^ a b c d e f Báo Tuổi Trẻ, Ông Thiệu đã chuyển 16 tấn vàng sang Mỹ?, 26/04/2006 truy cập được đến ngày 7/12/2007
  6. ^ Frank Snepp, Decent Interval, Penguin Books Ltd. 1980, tr. 342-343.
  7. ^ Sau khi Sài Gòn sụp đổ, CIA nhận được tin tình báo rằng từ đầu tháng 4, phe Cộng sản đã liên lạc với Nguyễn Văn Hảo, đề nghị ông tìm cách giữ không để 16 tấn vàng bị đem ra khỏi Việt Nam,
    Frank Snepp, tr. 334
  8. ^ a b Frank Snepp, Decent Interval, Penguin Books Ltd. 1980, tr. 334.
  9. ^ a b Báo Tuổi Trẻ Vàng đổi chủ, 30/04/2006
  10. ^ Tuy nhiên, chưa tìm thấy tài liệu do ông viết hoặc nói gì về sự thật này trong suốt hơn 30 năm trong khi ông Thiệu bị tiếng là chiếm của công, mang vàng ra nước ngoài.
  11. ^ a b Báo Tuổi Trẻ, Kỳ cuối: Người giữ chìa khóa kho vàng, 01/05/2006
  12. ^ a b c BBC Việt ngữ, Anh ra hồ sơ về ông Nguyễn Văn Thiệu, 29/12/2005.
  13. ^ Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa xuân, Chương 15: Giờ tàn của địch.
    Trích: “Cho đến ngày 26 tháng 4, khi Thiệu và gia đình hắn đem 16 tấn vàng bạc, đô la, của cải vội vã chạy sang Đài Loan…
  14. ^ Việt Báo Thứ Bảy, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu & Công Lao Của Một Vị Tướng, 10/6/2001
  15. ^ Tên và tác giả cuốn sách không được nói đến trong nội dung bài báo.
  16. ^ a b Lê Công Định, Câu chuyện Nguyễn Văn Thiệu “đánh cắp” 16 tấn vàng đã kết thúc, BBC Việt ngữ, 30/5/2006
  17. ^ Báo Thanh niên, Người “buôn tiền” thành bộ trưởng – Kỳ 1: Trở lại câu chuyện 16 tấn vàng ngày 30/4/1975


Nguồn: Wikipedia
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
  1. Hoàng Sa, Trường Sa thời VNCH
  2. Chuyện một người Chiến binh trong cuộc chiến Bắc Nam: Thiếu Tá Nguyễn Văn Sơn
  3. Những kỷ niệm với lá cờ vàng.
  4. Đi qua thời vàng, đỏ
  5. Từ thời cơ vàng đến thảm họa đen
  6. Chuyện con gà trống ưa gáy vang
http://www.danchimviet.info/archives/7778

***
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
  1. 37 năm bị “bịt miệng” trên “xứ sở tự do”[2]
  2. 37 năm bị “bịt miệng” trên “xứ sở tự do”[1]
  3. Mồm ngang miệng dọc, thâm độc vô cùng
  4. Miệng như… loài Sản
  5. Báo An Ninh Thế Giới: Bịa đặt dối trá để đàn áp bịt miệng?
  6. Miệng quan đã vậy, thế còn miệng vua?

Friday 28 September 2012

Đảng CSVN phiên bản của tình báo TQ - Kỳ 1 (Huỳnh Tâm)

9-2012
“...S thực, Hồ Tập Chương (HCM) đã dâng Ải Nam Quan cho đảng CS Trung Quốc, vào ngày 01/10/1950, ngày quốc khánh CS Trung Quốc...”
 
 


Một nhà kho nhỏ, chứa nhiều kệ sách báo, thứ tự danh mục, tư liệu giá trị, chúng thản nhiên ngủ yên 24 năm (1987‒2011). Bỗng một sớm mai mùa Đông vào dịp Noël 25/12/2011. Những sổ tay, hồi ký báo hiệu đã nằm trên kệ sách quá lâu, nơi vị trí trang trọng với sức nặng 63,3 kg. Chúng muốn chui ra từ trong một thùng xốp, gói bằng lớp nilon nén dày, chống ẩm cao, chịu đựng mọi thời tiết. Mười tám ngàn sáu trăm lẻ hai (18.602) trang hồ sơ, trong sổ tay, hồi ký vừa đứng lên vẫn còn sớ giấy mới, chính những lời nói bí ẩn của những người tình báo Trung Quốc. Chúng nói về thế sự của một đất nước xa xăm, nơi ấy đời sống xã hội lúc nào cũng rối bời không bao giờ người dân được hưởng thanh bình, và không có quyền suy tư cho chính họ.

Cùng lúc được tin, những chủ nhân sổ tay và hồi ký, không còn bao nhiêu người sống tại lục địa Trung Quốc, những tên tuổi tình báo Trung Quốc đã đi vào quá khứ, nhưng tư liệu còn sống mãi mãi bởi nó bí mật chuyển đến một mã số người chỉ huy "Cụm mây". Họ ghi chú tỉ mỉ từng chi tiết nội dung ngày đầu Cộng Sản Đông Dương (Pắc Bó) và CS Bắc Kinh hôn nhau thấm thiết, "Răng hở môi lạnh". Bí mật nào cũng chui ra từ bóng tối của Cát Thuần – Miêu Tuần Hóa (猫驯化), Đào Trinh (领导), HCC (美国郗蹉嗯), ĐBA – Đặng Bình Ánh (当平映), Trung Ương Cục (中央翼), HHN-Hà Hạ Nhân (何夏仁), Lương Quang Liệt (梁光烈), Trương Dũng- Trương Đình Tuyển Dũng (张庭选勇), Phùng Huy – Ư Y Bồng (于伊蓬), Chánh Phủ (政府). Và một số tư liệu riêng thu thập được trên chiến trường biên giới Tây Bắc, Đông Bắc Việt Nam, giáp Vân Nam, Quảng Tây Trung Quốc từ năm 1979-2010, đồng thời những tư liệu nền Đệ nhị Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, sau ngày 30/04/1975. Phơi bày một cục diện đất nước Việt Nam trải qua bóng ma tình báo CS Trung Quốc.

Để nói lên những gì chưa phơi bày ra ánh sáng, và muốn đọc thật lớn những gì trong sổ tay của ĐBA (当平映), thế nhưng mới đọc vài trang giấy đã thấy choáng váng bởi nội dung tình báo của đảng CS Trung Quốc hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam, và đảng CSVN ngày nay đích thực là hình "nhân" của CS Trung Quốc.

Mỗi sổ tay hầu hết ghi chú tất cả mã số hồ sơ, không khác nào rừng mây bao phủ trùng trùng bí mật. Chính cá nhân người tình báo, thú nhận ngày về chiều hay đã chết cũng không ai biết họ đem theo những gì! Tuy nhiên có một qui thức CSTQ buộc người tình báo tự nguyện làm thành lũy bao phủ trong lòng quốc gia khác (VN), riêng vùng cấm địa CS Trung Quốc người tình báo phục vụ cho những cái đầu chứa chất liệu đen lừa dối thiên hạ, CSTQ tự hãnh diện điên rồ dùng mỹ từ "nghĩa vụ CS Quốc Tế", đưa thiên hạ vào thế giới đại đồng lu bù, đến nay CS đã trở thành ảo tưởng.

Đôi lúc đọc được những giòng chữ: Người tình báo khao khát muốn sống bằng tên tuổi thật bình thường, đời sống tự do không còn tiếp nhận mệnh lệnh "vào sinh ra tử", thế nhưng nào ai có biết, người tình báo CS khi về chiều, sinh ra mâu thuẫn. Chính mình, thám thính mình để tránh né địch thủ (CSTQ). Một điều lạ không thể ngờ trong sổ tay của ĐBA (当平映), có viết một đoạn so sánh cùng một thời Tôn Trung Sơn sáng lập phong trào Tam Dân Chủ Nghĩa ở Trung Hoa, CS đang ồn ào ở nước Nga và Trung Hoa, riêng Việt Nam có Phan Châu Trinh với phong trào Duy Tân, mục đích đánh đổ chuyên chế, lập dân quyền tự do: Mùa hè năm 1906 có nhà chí sĩ Phan Châu Trinh về nước Việt Nam, dấn thân vào lòng cõi dân tộc, gieo tư tưởng Duy Tân vào lòng dân, đầu tiên ông gửi một bức thư chữ Hán "Đầu Pháp chính phủ thư" cho Toàn quyền Paul Beau vạch trần chế độ phong kiến thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ-dân nước Việt Nam và sửa đổi chính sách cai trị để giúp nhân dân Việt từng bước tiến lên văn minh.
Sau đó, Phan Châu Trinh đưa ra phương châm hoạt động "Tự Lực Khai Hóa" cùng tư tưởng dân quyền. Phan Châu Trinh cùng hai người bạn thân Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp đi khắp nơi truyền bá phong trào Duy Tân. Vận động quần chúng qua các khẩu hiệu của phong trào: "Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh". Phương thức hoạt động của phong trào bất bạo động, công khai hoạt động nhằm khai hóa dân tộc, cải cách trên mọi lãnh vực, khuyến khích giáo dục bỏ lối học từ chương, phát động phong trào học Quốc ngữ, mở mang công thương nghiệp, chấn hưng công nghệ, bỏ mê tín dị đoan, kêu gọi cắt tóc ngắn, cắt ngắn móng tay v.v...
Thời gian này, ông viết bài "Tỉnh quốc hồn ca", kêu gọi người dân theo hướng Duy Tân, Dân Chủ, người dân tiếp nhận hưởng ứng, lần lượt lập ra trường học, thư xã, thương hội, hội nghề nghiệp v.v...
Tiếc thương nhà chí sĩ Phan Châu Trinh thừa ý chí nhưng không đủ thời gian truyền bá tư tưởng Duy Tân tiến bộ. Ông qua đời lúc 21 giờ 30 phút, đêm 24 tháng 3 năm 1926, tại khách sạn Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại Bá Huê lầu, số 54 đường Pellerin, Sài Gòn. Hưởng thọ 54 tuổi (1872-1926). Phan Châu Trinh sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam.


Nhà chí sĩ Phan Châu Trinh. Ảnh: internet
Nhà chí sĩ Phan Châu Trinh để lại cho hậu thế những tác phẩm đáng đọc:
Ðầu Pháp chính phủ thư (1906)
Hợp quần doanh sinh thuyết quốc âm tự (1907)
Tây Hồ thi tập (tập hợp thơ làm trong nhiều năm)
Tuồng Trưng Nữ Vương (soạn chung với Huỳnh Thúc Kháng và Phan thúc Duyên (1910)
Trung Kỳ dân biến tụng oan thủy mạt ký (1911)
Santé thi tập (gồm hơn 200 bài thơ, soạn trong tù tại Pháp (1915)
Thư thất điều (thư vạch 7 tội của vua Khải Định (1922)
Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (7.000 câu thơ lục bát, soạn (1912-1913)
Tỉnh quốc hồn ca I, II (phần I, viết tại Việt Nam (1907), phần II, viết tại Pháp (1922). Đây là thơ hiệu triệu, thức tỉnh đồng bào, tạo dân khí mạnh, đề cao dân quyền)
Bức thư trả lời cho người học trò tên Ðông (1925)
Đông Dương chính trị luận (1925)

Ngoài ra, ông còn có các bài diễn thuyết về Đạo đức và luân lý Đông Tây, Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa, một số thơ (không nằm trong Tây Hồ thi tập) và nhiều câu đối chữ Hán ông làm từ 1902-1912...

Nhà chí sĩ Phan Châu Trinh qua đời, Việt Nam rơi vào một khoảng trống rỗng. Đến thế hệ 1940 gặp phải đất nước có bàng tay bí ẩn CS, họ từ đâu đến, gieo rắc quá nhiều uất ẩn, gây chia rẽ trong lòng dân tộc Việt Nam; người dân VN tự mất cơ hội khôn ngoan để phản ứng trước tình thế đất nước đang lột xác ra khỏi đô hộ của người Pháp. Đất nước đang cần người có đủ bản lĩnh, thúc dục phong trào Duy Tân, đánh đổ chuyên chế, lập dân quyền tự do cho Việt Nam, hầu như không có ai! Lại một lần nữa, mọi tần lớp người dân yêu nước tiếp tục thiếp ngũ!
Bỗng năm 1940. Ngài Phạm Công Tắc, báo động đất nước đến hồi lâm nguy, tuyên bố: "Hôm nay đất nước Việt Nam chỉ có một trái đắng đỏ Hồ Chí Minh không trừ khử, mai sau ắt cả nước Việt Nam sẽ bị nhuộm đỏ". Lời báo động chưa bay xa, CS Trung Quốc đã ào ào kéo đến, gieo vào Pắc Bó biên giới Việt Nam một Hồ Tập Chương (HCM) thân thế bí mật.

Càng tìm hiểu vào lãnh vực tình báo CS Trung Quốc, lòng càng xây xẩm, bởi hồ sơ tình báo dày đặc, tối cả vung trời Việt Nam. Lòng bừng nóng tự hỏi: Lý do nào người Việt Nam sợ hải chạy theo ảo ảnh CS Trung Quốc, một cách mù quáng để rồi ngày nay nhuộm đỏ cả giang sơn đất nước Việt Nam!
Đến lúc cần phải giải mã một thứ mây trôi khó đoán định về tình báo CS Trung Quốc đã ngự trị trên đất nước Việt Nam 70 năm qua, cũng phải đến lúc cần suy nghiệm tìm một ít ánh sáng dẫn đến nội dung mã số bí ẩn, hy vọng tìm được mọi chân tướng tình báo cơ sở của CS Trung Quốc trên đất nước Việt Nam. Dù lắm trở ngại hay vất vả cũng khởi hành vào thế giới không thấy bóng người, đôi lúc bước chân đến nơi cánh cửa mã số vừa hé mở, liền bị phản gián CS Trung Quốc (中国共产党反间谍) báo động chuyển qua hướng khác! Thêm một lần nữa, và rất nhiều lần khởi lại hành trình mới, cứ thể một bóng đen đi giữa ban ngày, lây nhây tìm nội dung cần thiết có khả năng giải mã. Tuy có 63,3 kg, trên 18.602 trang hồ sơ, có mã số đã ở trước mặt, thế nhưng mọi tư liệu khó hiểu, nào ai biết nó nói những gì bởi những tờ giấy quá khôn ngoan, cuối cùng được em (A)....hướng dẫn một phương thức giải mã morse thông minh. Cảm ơn em (A).... nhiều và nhiều.

Thì ra, mọi mã số bước ra từ Quân Ủy Trung Ương Trung Quốc (CPC). Thuộc chỉ đạo 24 Tổng cục tình báo và cơ quan, hoạt động trong mã số ấn định. Tổng cục 16 ấn bản mã số, nơi nghiên cứu kế sách hành động cho từng Cụm mây.


Mã số VN0841. Morse Code Beacon Keyer Electronic Circuit
(Quốc phòng).Nguồn: CPC-HN.1950.




Mã số HN1941S. Music have Morse code (Nhà nước).
Nguồn: CPC-HN.195
0



Mã số HN010232. (01/02/1950). Morse Code Forever (Văn kiện tình báo). Theo tình báo Hoa Nam, vào thời điểm 1987, máy truyền thông hay Radar định vị, thường bị phá sóng, mật mã lọt ra ngoài, cho nên tình báo Hoa Nam vẫn sử dụng Morse. Nguồn: CPC-HN.1950
Theo hồ sơ tình báo Hoa Nam (MSS) mã số HN0841: Đầu mùa Xuân năm 1940, đảng CS Trung Quốc lấy quyềt định bành trướng xuống Việt Nam, cho ra đời Cộng Sản Đông Dương (印度支那共产党 - Ấn độ chi na cộng sản đảng). Đến ngày 08 tháng 02 năm 1941, đảng CSTQ chọn biên giới Việt Nam làm thí điểm. Từ đó Việt Nam gặp phải một luồng mây nghìn nghịt đen, từ Phương Bắc kéo đến địa danh Pắc Bó thuộc bản Bó Bẩm, gần các bản Khuổi Nậm, Nà Kéo, Nà Mạ, Nậm Lìn và Nà Lẹn thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng Việt Nam, giáp ranh biên giới khu tự trị dân tộc Choang thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

Tại cửa ngõ Pắc Bó cho ra luồng khí bẩm lạnh tanh, tràn lan giá buốc thấu xương bản làng biên giới, không bao lâu vào sâu lãnh thổ Việt Nam. Đúng lúc tình thế Việt Nam sôi động chính trị, từng giờ nóng lạnh bất thường. Gió Tây độc chuẩn bị giả từ trăm năm đô hộ Việt Nam, đột biến gió da vàng xuất hiện, Nhật Bổn, Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Gió da vàng CS Trung Quốc có lợi thế hơn, thừa dịp thổi tốc mái nhà Việt Nam.



Một góc bản đồ tỉnh Cao Bằng SGI 1/100.100 năm 1948.
Khu vực hang Pắc Bó kế cận các cột mốc 107, 108…
thời Pháp-Thanh. Ảnh: (HN-MSS).
Bắc Kinh cho Hồ Tập Chương (gốc Hẹ, nguyên quán Đài Loan - xem tài liệu “Hồ Chí Minh sinh bình khảoHoChiMinhSinhBinhKhao của Hồ Tuấn Hùng) thực hiện điệp vụ nhập xác Hồ Chí Minh (chết tại Hương Cảng năm 1932). Mã số HN1941S trong bàng tay phù thủy Bắc Kinh vận dụng hết khả năng hướng dẫn dư luận, đẩy nhịp độ cơ sở CS Pắc Bó thành con chim đầu đàn Đông Dương.

Bắc Kinh đứng trong vách núi, lệnh ban hành kế hoạch, định thời, dựng thế, tạo khí hậu nóng gắt, trút xuống một trận mưa CS trên đầu người dân Việt Nam, vốn không đề phòng hậu quả, tác hại lâu dài của khí độc CS, có người háo hức đến nỗi mơ hồ, uống nước mưa CS hy vọng chữa trị bá bệnh kinh niên nhược tiểu, không ngờ dịch CS ăn vào xương tủy, nó tự hoành hành, phá banh lục phủ, ngũ tạng dân tộc Việt Nam.
 

Hồ Tâp Chương (HCM) bí mật đi qua Ải Nam Quan
đến Quảng Tây, vào ngày 16-01-1950. HCM trùm khăn đứng
thứ hai bên phải hình. Ảnh: (HN-MSS).

 
Một mã số HN011050. Hiện lưu trữ tại Học Viện Quân Sự Tình Báo Bắc Kinh (北京智能军校 – Bắc Kinh chí năng quân hiệu). "Hồ Tập Chương thay mặt đảng CS Đông Dương, tham dự quốc khánh Trung Quốc ngày 01/10/1950. Ông tuyên bố: "Từ ngày có đảng ta, khai hóa được nhược tiểu chư hầu VN, đến với trào lưu nghĩa vụ CS Quốc Tế, nay kính dâng lên đảng tùy nghi sử dụng cơ sở CS Đông Dương. Mao Chủ Tịch muôn năm"!
(之日起,我们党,文明的主要缺陷越南后,国际共产主义运动的进展,这种玻璃上升的基础处理越南共产党,万岁毛主席 - Chi nhật khởi, ngã môn đảng, văn minh đích chủ yếu khuyết hãm Việt Nam hậu, quốc tế cộng sản chủ nghĩa vận động đích tiến triển, giá chủng pha ly thượng thăng đích cơ sở xử lý Việt Nam Cộng Sản Đảng, vạn tuế Mao chủ tịch).


Ải Nam Quan trải qua các thời kỳ nhà Hán đặt tên: Úng Kê Quan,
sau là Kê Lăng Quan, Giới Thủ Quan. Đến thời Gia Tĩnh nhà Minh
đặt tên: Trấn Nam Quan. Ngoài ra, phía Việt Nam đặt tên:
Ải Pha Lũy, trước thế kỷ 12 đã có tên Ải Nam Quan.

Người viết bài này xin trình bày đặc điểm hình thù của Ải Nam Quan bởi có đến nơi tham dự trao trả tù binh chiến tranh biên giới Việt Nam và Trung Quốc tại địa điểm Ải Quan Trung Hoa (中国通), vào lúc 11 giờ, ngày 01 tháng 9 năm 1987 với tư cách ký giả. Nhân dịp dùng một photo chụp những năm cuối TK19 để chứng minh.

Chúng ta thấy đường lên cửa ải chạy dài từ Việt Nam xuyên qua con đường dốc thẳng đến chính diện cửa ải (nhỏ), nơi cửa ải nhỏ này thuộc về Trung Quốc với tên Ải Quan Trung Hoa (中国通), đã có từ ngàn đời, chính giữa cách khoảng đất trống của 2 ải (vùng phi quân sự), trung tâm một đường chiều dài 100m lót đá, cứ 10m chôn sâu một tảng đá làm mô (chướng ngại vật), theo nguyên tắc cắm móc biên giới từ xưa đến nay vẫn thế, hai ải xây dựng kích thước và kiến trúc như nhau và mỗi quốc gia đặt trạm canh biên phòng.

Lý do hình thù cửa ải bên Việt Nam thay đổi. Vào năm 1774, Ðốc trấn Lạng-Sơn, Nguyễn Trọng Ðang cho trùng tu xây dựng kiến trúc mái ngói cong theo văn hóa Việt Nam, cũng có ý biểu thị cửa ải nói lên tinh thần dân tộc Việt Nam, và phân biệt hai cửa ải.

Đến ngày 26 tháng 6 năm 1887, Pháp và Nhà Thanh ký Công Ước Về Hoạch Ðịnh Biên Giới Giữa Việt Nam và Trung Quốc. Ngày 21 tháng 04 năm 1891 tiến hành cắm cột mốc tại vùng biên giới Ải Nam quan.

Định lệ, Pháp-Nhà Thanh căn cứ theo Công Ước Về Hoạch Ðịnh Biên Giới Giữa Việt Nam và Trung Quốc: "Từ nay Trung Quốc có Ải Quan Trung Hoa (中国通). Việt Nam có Ải Quan Việt Nam (谁越南)". Pháp-Nhà Thanh đồng ý xây dụng lại cửa ải, kích thước lớn 100%. Một lần nữa cửa ải thay đổi kiến trúc, Pháp thực hiện trước, xây dựng lại hoàn toàn mới, theo mô hình kiến trúc cũ của Ðốc trấn Lạng-Sơn, Nguyễn Trọng Ðang. Từ đó cửa Ải Quan Việt Nam (谁越南) đồ sộ, tấm vóc hùng vĩ. Nhìn qua cửa Ải Quan Trung Hoa (中国通) nhỏ bé cho đến năm 1950.

Sự thực, Hồ Tập Chương (HCM) đã dâng Ải Nam Quan cho đảng CS Trung Quốc, vào ngày 01/10/1950, ngày quốc khánh CS Trung Quốc, và ông ta tự đổi tên Ải Nam Quan thành Mục Nam Quan, đến năm 1953 Quốc Hội Trung Quốc phê chuẩn thông qua với cái tên mới Mục Nam Quan. Một lần nữa, vào năm 1965 theo yêu cầu của đảng CSTQ đề nghị Hồ Tập Chương đổi tên Mục Nam Quan thành Hữu Nghị Quan. Báo chí CSVN đồng ca bài Hữu Nghị Quan, hướng dẫn dư luận thành công, một mỹ từ Hữu Nghị Quan quả nhiên dối trá được cả một dân tộc. Đến năm 1979, mới thực sự có ba tên, một Ải (Ải Nam Quan, Mục Nam Quan, Hữu Nghị Quan). Ngày nay cửa Ải Quan Trung Hoa (中国通) không còn, và (vùng phi quân sự), trung tâm một đường chiều dài 100m lót đá, cứ 10m chôn sâu một tảng đá làm mô (chướng ngại vật) đã biến mất; để nhường lại đường vận tải vũ khí cung cấp cho CS Đông Dương vào năm 1950.

Thương thay cho Cha-Ông ta xây dựng một dãy giang sơn gấm vóc Việt Nam, quá hoàn bích từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau. Nay đảng CSVN hai tay liền dâng hiến Ải Nam Quan cho CSTQ. Từ nay dấu chân tiền nhân Việt Nam không còn trong ký ức nhân loại và bản đồ thế giới chính thức xóa sổ Ải Quan Việt Nam (谁越南), người Việt mình, miệng gọi: "Ải Nam Quan" đã quen, nay không còn để gọi!

Thành lập nhà nước CS Pắc Bó

Đảng CS Đông Dương chuyển động, núp sau bóng tối của CSTQ để làm thây ma, CSTQ thừa dịp đẩy mạnh hướng dư luận, quảng cáo một nhân vật tình báo Hồ Tập Chương (HCM) (xem tài liệu “HoChiMinhSinhBinhKhao” của Hồ Tuấn Hùng)(HCM) gốc Hẹ, sinh tại Đài Loan, và đánh bóng, suy tôn lên tầm cở thánh tổ dân tộc VN. Bản thân Hồ Tập Chương thuộc chi bộ đảng CSTQ. Còn nhiều nhân vật tình báo chiến lược khác của Trung Quốc, tạm thời ẩn mình trong lớp áo Trung ương đảng CS Đông Dương. Đến nay chỉ mở được vài gói mã số, khó ai biết rằng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 08 năm 1911 tại Bắc Kinh Trung Quốc (tình báo Hoa Nam MSS), một hồ sơ khác của đảng CS Đông Dương, tạo dựng Võ Nguyên Giáp sinh tại tỉnh Quảng Bình Việt Nam.

1935 Võ Nguyên Giáp (武元甲), Nguyễn Chí Thanh (阮成志) được CS Trung Quốc đào tạo tại Học viện Quân sự Vân Nam (大将,越南国防部部长兼越南人民军总司令).
Đến ngày 08 tháng 02 năm 1941. ĐCSTQ thành lập một chính quyền Đỏ bù nhìn, và bộ máy chiến tranh thu nhỏ, trên 175 Quân cán chính từ Trung Quốc, đổ bộ đến hang Pắc Bó.



Những tên Tần Thủy Hoàng con, tung hoành trong Việt Nam Cộng Sản Đông Dương. Trường Chinh, Hồ Tập Chương (HCM), Cố vấn Đại tướng Trần Canh (陈能). Trung tướng La Quý Ba (三季度), gốc Giang Tây, cố vấn trưởng, Đại sứ Trung Quốc tại Chiến khu Việt Bắc (Pắc Bó) năm 1950. Ảnh: THX.
Tổ chức bộ máy chiến tranh gồm có:

Chủ Tịch: Hồ Tập Chương (HCM) quyền đảng trưởng CS Đông Dương. CSTQ biệt phái Đại tướng Trần Canh (陈能), Tổng Tham mưu Trưởng Quân sự, cố vấn CSĐD.

Tổng Bí Thư: Trường Chinh quyền BT/CSĐD. CSTQ biệt phái Thượng tướng Đặng Dật Phàm (置风扇), cố vấn Đảng Ủy Trung Ương.

Thủ tướng: Phạm Văn Đồng quyền Thủ tướng CSĐD. CSTQ biệt phái Trung tướng La Quý Ba (三季度), làm Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, cố vấn Cán chính, thành lập chính phủ CSĐD.
- Tổng Thanh tra Chính phủ, Cố vấn Trung tướng Từ Văn Cương (从范).
- Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Cố vấn Trung tướng Hàn Lộc Tướng (南禄一般).

Ngoại giao: Hoàng Văn Hoan Đại sứ CSĐD tại Bắc Kinh.

Tòa án Quân sự Trung ương: CSTQ biệt phái Trung tướng Mai Gia Sinh (麦嘉双曲正弦), tham mưu phó, Tổng cục Chính trị, kiêm nhiệm Tòa án Quân sự Trung ương.

Tòa án Nhân dân Tối cao: CSTQ biệt phái chuyên gia Tình báo, Quân báo, Thượng tướng Vương Nghiên Tuyền (美国研究事业), chủ nhiệm Tư pháp, cố vấn tác động quần chúng ( khích động).


Tòa Lao động: CSTQ biệt phái Trung tướng Trương Sinh Hoa (张庭广和市), chủ nhiệm Tòa Lao Động, cố vấn Tư pháp.

Quốc phòng: Võ Nguyên Giáp (武元甲) quyền Bộ trưởng Quốc phòng CSĐD. CSTQ biệt phái Thượng tướng Vi Quốc Thanh (韦国清) tham mưu trưởng cố vấn Quân sự, kiêm nhiệm đào tạo Tổng Cục Tình báo CSĐD. Thượng tướng Đặng Thanh Hà (当薄哈), chủ nhiện đào tạo Quân cán chính đảng bộ CSĐD. Mở hai trung tâm đào tạo quân sự Nam Ninh và Kaiyuan ở Vân nam, mỗi khoá 6 tháng.

Bộ binh: Trung tướng Vu Hóa Thầm (武安和), tham mưu trưởng quân đoàn, cố vấn các binh chủng. Đại tá Lý Ngọc Tiên (玉田) cố vấn Lục Quân, Đại tá Trần Ngũ Quan (五泉陈) cố vấn Học viện quân sự.

Pháo binh: Trung tướng Đậu Kim Ba (金三豆), tham mưu trưởng pháo binh, cố vấn Quân chủng Phòng không. Trung tá Trương Tường (张长城),


Lục quân: Trung tướng Phương Phương (横幅本地), chủ nhiệm Quân chủng Lục quân. Đại tá Hồ Thiên Thuỷ (何添翠). Đại tá Triệu Thuỵ Lai (万瑞丽),

Báo vụ điện đài: Thiếu tướng Tống Nhược Thạch, (童缺点撒奇) chủ nhiệm báo vụ điện đài, và các thành viện. Đại tá Lưu Chấn Hải (刘珍海), Thiếu tá Đinh Chấn Quang (与拦截器), Thiếu tá Lý Văn Đạt (范逸), Thiếu tá Bành Chi Lan (彭兰).

Quân báo: Trung tướng Lỗ Hiển Dư (显示多余的孔), đặc trách huấn luyện Quân báo, cố vấn Văn phòng các Bộ, dưới quyền có những thành viện: Đại tá Chu Ngọc Đường (储玉平阳), Thượng tá Quý Lai Hỷ (赖海兰),  Thiếu tá Phú Từ Hán Văn (从东汉范),
Công nghiệp Quốc phòng: Trung tướng Trương Quảng Hoa (张庭广和市), văn phòng đoàn quân sự, cố vấn Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng.

Tình báo MSS: Thượng tướng Diên Nguyệt Canh (荣裕), chủ nhiệm tình báo Hoa Nam MSS. Thiếu tướng Vương Chấn Hoa (王稹华), đặc trách huấn luyện Tình báo, và các Cơ quan, đơn vị khác trực thuộc Quốc phòng. Thượng tướng Vương Gia Tường (黄墙), Phó chủ nhiệm cục Tình báo, dưới quyền có những thành viện như: Đại tá Triệu Tồn Hiếu (百万储备), Đại tá Tiết Tảo Ngọc (先進的藻類玉), Đại tá Quách Minh Kiếm (郭台銘搜索), Đại tá Vương Vĩnh Đức (美國榮德), Trung tá Lý Tiên Xuân (黎梯摁軒), Trung tá An Đình Lan (安庭蘭), Trung tá Quách Hữu (郭友).
- Trung tướng Lý Văn Nhất (凡山一) tham mưu trưởng Quân pháp Quân đoàn.
- Trung tướng Chu Hạc Vân (朱鶴範) tham mưu trưởng Quân đoàn Pháo binh.
- Thượng tướng Trương Quảng Hoa (張庭廣和市) cố vấn Học viện quân sự, đặc trách trường sĩ quan Trần Quốc Tuấn, (trong lãnh thổ Trung Quốc).
- Trung tướng Trương Chí Thiện, (张庭选智添) chủ nhiệm kế  hoạch chiến lược.
- Chuyện viên Lý Hàm Trân (火腿陳) chủ nhiệm viện Hộ lý (vợ của Trung tướng La Quý Ba Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam).
- Chuyện viên Hứa Kỳ Thanh (应许之国) chủ nhiệm binh đoàn Hộ lý (vợ của Thượng tướng Đặng Dật Phàm cố vấn Đảng Ủy Trung Ương, kiêm nhiệm đào tạo Tổng Cục Tình báo CSĐD).


Hậu cần: Trung tướng Vu Bộ Huyết (武血), Tổng cục Hậu cần, chủ nhiệm trưởng Quân nhu, Quân dụng. Thiếu tướng Mã Tây Phu (代碼西方夫人), Tổng cục tài chính, lương thực. Thiếu tướng Lý Học Thư (心理學的信), Quản lý vật tư. Đại tá Dương Đồng Văn (  ), chủ nhiệm cục trưởng Kế toán.

Tư Pháp, Nội vụ: Tượng tướng Nhạc Tinh Chiếu (基本的音樂篩選) chủ nhiệm Nội vụ kiêm nhiệm cục trưởng Công an. Thiếu tướng Châu Dật Chi (歐洲地球) đào tạo Kỹ thuật Công an. Lực lượng biên phòng. Thiếu tướng Hứa Kỳ Thanh (應許之國) vụ viện tình báo Lào, và Campuchia. Thiếu tướng Độc Kim Ba (單金巴) chủ nhiệm Cảnh sát, đặc ủy vụ viện tình báo miền Bắc VN. Thiếu tướng Hoàng Vi (晃六) vụ viện tình báo miền Trung VN. Thiếu tướng Châu Khuê (歐洲) tham mưu vụ Công an, vụ viện tình báo miền Nam VN.

Ngân hàng, Tài chính: Trung tướng Vân Dật (範逸), chủ nhiệm cục trưởng Tài chính. Trung tướng Thiên Hựu (神退休), chủ nhiệm cục trưởng Ngân sách quốc phòng. Trung tướng Thôi Ngô (來武) Viện trợ, kiêm nhiệm Phó ban chính trị đảng. Trung tướng Lý Quế Minh (闕胡志明市), cố vấn Ngân hàng CSĐD. Thiếu tướng Trương Ngọc Phong (張庭選玉海防), chủ nhiệm cục trưởng Kế toán.

Thông tin và Truyền thông: Thiếu tướng Trần Thủ Thành (陳星期四會員), chủ nhiệm tổng cục Báo vụ viên, kiêm phóng sự ảnh Hoa Nam MSS. Thiếu tướng Hà Thiệu Vũ (下阮文紹武), trưởng vụ viên Báo chí, chính ủy. Thiếu tướng Lương Trung Ngọc (陳德良的玉), phát ngôn viên chính phủ, kiêm đào tạo Báo vụ viên. Thiếu tướng Vương Chấn Phu (美國毯子), chủ nhiệm đào tạo truyền thông, kiêm nhiệm Quân bưu. Thiếu tướng Đỗ Kiến Hoa (做建華), chủ nhiệm Bộ Tư lệnh Quân khu, cố vấn các quân đoàn chủ lực.

Văn hóa, Giáo dục, Đào tạo: Thượng tá Lâm Quân Tài (遴驅埯財經), chủ nhiệm trưởng Hoa Văn. Thượng tá Trương Hưng (張庭選紅), chủ nhiệm Tôn giáo. Thượng tá Dương Cẩm Sơn (平陽才可兒子), chủ nhiệm cục trưởng giáo dục Văn hóa. Thượng tá Hoàng Kính Văn (皇家玻璃辦公).


Tướng lãnh Trung Quốc thành viên trung ương lãnh đạo CS Pắc Bó. Ảnh: (HN-MSS).

Quân đoàn: Thượng tướng Vương Thừa Vũ (的蘇阿武 ), Tham mưu trưởng Sư đoàn 308.
Thiếu tướng Lê Quang Đạo (經濟道), chính uỷ Sư đoàn 308. Thượng tá Vương Thạc Tuyên (美國碩士宣言), cố vấn Sư đoàn 308. Trung tá Diêm Thử Khánh (有趣慶), chỉ huy trưởng trung đoàn 36, Sư đoàn 308. Trung tá Chu Diêu Hoa (週期調控), chỉ huy Trung đoàn 88, Sư đoàn 308. Trung tá Điền Đại Bang (進入大爆炸), chỉ huy Trung đoàn 102, Sư đoàn 308. Thiếu tướng Vương Vĩnh Pháp (美國榮法國), Tham mưu trưởng Sư đoàn 312. Thiếu tướng Tăng Diên Vỹ (增加光圈), chính uỷ Sư đoàn 312. Đại tá Nghiêm Dục Sinh (嚴格教育學生), cố vấn Sư đoàn 312. Trung tá Hầu Hàn Giang (最邗江), chỉ huy trưởng trung đoàn 36, Sư đoàn 312. Trung tá Hàn Lộc Tướng (南祿一般), chỉ huy trưởng trung đoàn 165, Sư đoàn 312. Trung tá Thái Dũng (泰國阮晉勇), chỉ huy trưởng trung đoàn 209, Sư đoàn 312. Thiếu tướng La Tự Hiền (洛杉磯車展), Tham mưu trưởng Sư đoàn 316. Thiếu tướng Triệu Tích Phong (百萬斯里蘭卡室), chính uỷ Sư đoàn 316. Thượng tá Như Phụng Nhất (由於鳳凰第一), cố vấn Sư đoàn 316. Trung tá Dương Tiến (海洋博士), chỉ huy trưởng trung đoàn 98, Sư đoàn 316. Trung tá Nhiệm Cùng (團一起), chỉ huy trưởng trung đoàn 174, Sư đoàn 316. Trung tá Kiếm Anh (搜索英國), chỉ huy trưởng trung đoàn 176, Sư đoàn 316. Thiếu tướng Phó Hiếu Trung (中國國務院副), Tham mưu trưởng Sư đoàn 304. Thiếu tướng Sư Địch Anh Kiệt (翻譯武文傑), chính uỷ Sư đoàn 304. Đại tá Trương Nãi Chiêm (章嗯愛沾), cố vấn Sư đoàn 304. Trung tá Lưu Sư Tường (保存的相似性), chỉ huy trưởng trung đoàn 9, Sư đoàn 304. Trung tá Vương Nghị (美國法令), chỉ huy trưởng trung đoàn 57, Sư đoàn 304. Trung tá Tôn Đức Tu (文件太陽), chỉ huy trưởng trung đoàn 66, Sư đoàn 304.
Quân Y: Trung tướng Bác sỹ Lý Kiện Hoa (李建華), Tổng cục trưởng Quân y. Thiếu tướng Lâm Quân Tài (遴驅埯財經), Tổng cục phó Quân y. Thiếu tá Mạnh Đông Thăng (勝強), cố vấn Trợ lý thương binh. Thiếu tá Trần Bình Sơn (鎮平子), quảng trị bệnh xá. Thiếu tá Tập Tùng Anh (東英格蘭), đào tạo y tá.


Các cấp chỉ huy Trung đoàn của quân đội Trung Quốc,
đóng quân tại bản Khuổi Nậm, Nà Kéo, Nà Mạ, và Nậm Lìn
thuộc huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Ảnh: (HN-MSS).

 
Tất cả 11 trung đoàn bộ binh, còn có toàn bộ Sư đoàn công pháo 351 (45 khẩu pháo 105ly, 20 khẩu pháo 75 ly, 36 khẩu súng cối 120 ly, một số khẩu cao xạ pháo, súng máy cao xạ, 2 trung đoàn công binh).

Quân đội nhân dân giải phóng Trung Quốc vận dụng mọi chủ lực tiến vào Việt Nam gồm Sư đoàn 308, 312, 316, Sư đoàn công pháo 351, trung đoàn 148, Sư đoàn 320, 304. Hầu xây dựng vững mạnh đảng CS Đông Dương, chủ yếu Việt Nam ưu tiên một!

Hậu phương: Dân công chuyển ra tiền tuyến chiếm một tỉ lệ lớn trong nhiệm vụ vận tải cung cấp trên 37.800 tấn lương thực, do Trung Quốc đảm nhiệm, riêng quần chúng dân tộc biện giới Việt Nam và vùng tự trị Choang đóng góp hơn 9.500 tấn. Quả nhiên sự quyết tâm lớn chưa từng có của đảng CSTQ, hậu hỹ cung cấp cho chiến trường Việt Nam.
Bộ máy chiến tranh từ trung ương đến bộ chỉ huy chiến trường chỉ còn vận hành theo lệnh của Mao Trạch Đông.


Trên 175 tướng lãnh, chuyên gia chiến lược, quân sự và chuyên gia thành lập hành chánh từ cấp Trung Ương đến địa phương. Trước khi tuyên bố đảng CS Đông Dương. Mao Trạch Đông cho trừ bị 320.500 quân binh bên kia biên giới Quảng Tây Trung Quốc, trấn giữ hậu phương để Hồ Tập Chương (Hồ Chí Minh) tung hoành trong lãnh thổ Việt Nam.

Tháng 8/1950. Khi trả lời phỏng vấn nhà báo Mỹ Andrew Roth. Hồ Tập Chương (HCM) thừa nhận ảnh hưởng của Trung Quốc và phong trào giải phóng Việt nam đang chuyển mình theo mô hình của Trung Quốc.

Bản thân Hồ Tập Chương (HCM) nguyên chuyên viên tình báo Quốc tế, vẫn phải có những cố vấn tình báo nhị trùng bên cạnh, đặc biệt Đại tướng Trần Canh (陈能) một tướng lãnh thứ 23 của đảng CS Trung Quốc, cùng tháp tùng có 45 nhân vật tình báo cao cấp của Hoa Nam MSS, và cấp Thượng tướng. Đảng CSTQ cài sau lưng Hồ Tập Chương những nhân vật trên với cương vị cố vấn quân sự. Buổi sơ khai thành lập đảng CSĐD, CSTQ tranh thủ dựng lên một hang hốc Pắc Bó. Thời điểm này khó ai biết rõ Hồ Chí Minh còn sống hay đã chết, chỉ có Quân Ủy Trung Ương Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, mới đủ tư cách xác nhận. Pắc Bó chỉ có Hồ Tập Chương, còn người đứng sau lưng bức màng bí mật là Mao Trạch Đông!

Theo mã số HN010232. Tình báo Trung Quốc còn ghi chú: "Ba tư liệu bí mật về HCM vẫn còn chứa bí ẩn".

1 ‒ ADN của Hồ Chí Minh, giấy khai tử tại Hương Cảnh.
2 ‒ Mục đích đổi tên đảng CS Đông Dương, thành lập đảng Lao Động VN ngày 02/9/1945.
3 ‒ Một "Cụm mây" tình báo, ai sẽ là người thực hiện "trừ khử" Tướng lãnh ngoài mặt trận, khi phản bội đảng CSTQ.

Ai là người công bố hay thực hiệc 3 yếu tố trên, khó ai biết trước vì còn một mã số ẩn, bởi vậy mỗi khi nghe tiếng hắt xì từ Bắc Kinh, tất cả nhân vật nhà nước Pắc Bó phải tuân lệnh, sau đó đổ xuống đầu dân tộc Việt Nam, một gánh phân chứa nhiều độc tố, do đảng CS Đông Dương làm chủ chiến dịch, đảng CSTQ lãnh đạo thành công. CS Đông Dương người học trò tốt, tuân lệnh ngoan ngoãn theo lời chỉ dạy, rập khuôn mẫu thực hiện, chủ yếu phá tiêu tan nguồn sinh lực dân tộc Việt Nam, càng chứng tỏ trung thành với đảng CS Quốc Tế. Đặc biệt nhiệm vụ tình báo Hoa Nam (MSS), cài nhân sự vào các cấp, trải rộng khắp mọi nơi, ngoài ra mỗi năm gửi về Trung Quốc 350 Quân, Cán, Chính đào tại Tình báo và Quân sự v.v...!

Thế hệ 1940 rất nhiểu người đầy nhiệt huyết đã từng lấy quyết định từ chối CS và không kỳ vọng vào Trung Quốc, họ từ giả trước cơn mưa rào chưa bao giờ thấm đất, và không hề xảy ra (cách mạng mùa thu 1945). Đảng CS Đông Dương chỉ nặn ra hình bóng cuộc tổng khởi nghĩa mùa Thu, mà họ cho rằng lịch sử ngày 19 tháng 8 năm 1945. Quả nhiên hình nộm của đảng CS Trung Quốc xuất hiện ngay trong bao tử của đảng CS Đông Dương, người CS xem việc kỹ thuật truyền truyên là một phương tiện đẩy mạnh mùa Thu thành phép lạ, đưa dư luận đến nông thôn ra thành thị, với những người cướp tinh thần 9 năm kháng chiến chống Pháp, chống Nhật hối hả bu vào đống phân CS Đông Dương, không bao lâu cờ đỏ búa liềm xuất hiện, trút xuống và nhuộm đỏ một phần quê hương Việt Nam, biến thành một chư hầu mới, đắc lực cho đảng CS Trung Quốc, chấp nhận làm thân ngoại lai để rồi đem dân tộc Việt Nam vào lò thiêu, nghĩa vụ CS Quốc Tế.

Trước 1940, họ quá ngu ngơ tự rước CS vào Việt Nam, đương nhiên ngày nay phải có trách nhiệm với lịch sử dân tộc Việt Nam, bởi những thế hệ mai sau không thể chấp nhận ăn phải mọi cay đắng, và không thể thấy đất nước mãi mãi điêu linh. Kẻ cố ý đem đến cho Việt Nam một tai nạn CS, khó tha thứ được bởi tội đồ của Tổ Quốc Việt Nam.

Chính những nhà lãnh đạo sát máu của đảng CSVN đã công nhận rước Trung Quốc, thực hiện lừa đào nhân dân Việt Nam. Tạo ra nội vụ chiếc áo "Lụa" của Hồ Tập Chương (HCM) toàn quốc phải trả với giá 9 tấn vàng. Số vàng này đảng Lao Động Việt Nam triều cống cho tướng lãnh Quốc Dâng Đảng.

Tiếp theo một chân sau, đảng CS Trung Quốc. Tòa án Nhân dân Tối cao CS Đông Dương, do Thượng tướng Vương Nghiên Tuyền (), nguyên chỉ huy Tình báo và Quân báo CS Trung Quốc, soạn thảo kế sách 然的 – Nhiên Đích (Ngũ sang định). 1 ‒ Khích động xã hội tranh chấp. 2 ‒ Càn quét loại bỏ tư sản, phát hành phiếu tệ. 3 ‒ Cải Cách Ruộng Đất. 4 ‒ Tập trung lao động. 5 ‒ Chiêu mộ nhập ngũ.

Đích thân Hồ Tập Chương (HCM) tiếp nhận mệnh lệnh thực hiện (Ngũ sang định). Ngoài kế sách còn có chiến dịch, khích động những gia đình "tài phú" âm thầm đóng hụi chết trên 28 tấn vàng. Ra quân đợt đầu không một âm vang nhưng đem lại thành công rực rỡ, đảng Lao Động Việt Nam rất hài lòng và triều cống cho đảng CS Trung Quốc.

Paris 23/9/2012
Huỳnh Tâm