Mai Thanh Truyết 2013/05/10
Kể từ
khi tiến chiếm miền Nam của cs Bắc Việt ngày 30/4/1975, chúng ta ngày
càng thấy lộ rõ tính nô lệ Trung cộng (TC) của những người lãnh đạo đất
nước. Cuộc chiến “có tiếng súng” nổ ra ở biên giới Việt-Trung ngày 17
tháng 2 năm 1979 chỉ là sự khởi đầu cho tiến trình Bắc thuộc lần thứ năm
của TC. Cuộc chiến không phải chấp dứt 10 ngày sau đó, mà vẫn tiếp tục
day dẳn dọc theo biên giới mãi cho đến năm 1988 qua sự quy phục hoàn
toàn của cs Bắc Việt khi TC tiến chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Và cuộc chiến không tiếng súng bắt đầu.
Và hiệp ước biên giới được hai bên ký kiết (theo lịnh của TC) như sau:
- Cột mốc biên giới số 1116 đã được chính thức cấm vào phía Nam của Ải Nam Quan và cách ải 280 m;
- Thác Bản Giốc trở thành một trung tâm du lịch do TC quản lý;
- Quan
trọng hơn cả là sự hiện diện của người thiểu số Tày dọc theo chiều dài
biên giới Việt-Trung tới tận tỉnh Quảng Đông. Người Tày có khuynh hướng
thân TC và đã được TC khuyến dụ như là một đạo quân thứ năm của TC một
khi có chiến tranh xảy ra.
Thật
ra, những sự kiện vừa nêu trên có thể nói là kết quả của những mật đàm
từ trước, Hội nghị Thành Đô năm ngày 3 và 4 tháng 9 năm1990.
Trong
quá trình lịch sử, chúng ta thấy rất rõ tham vọng chiếm đóng Việt Nam
của người Hán đã xảy ra hàng ngàn năm trước và VN chịu bốn lần ách đô
hộ. Và hôm nay, dưới cuộc chiến không tiếng súng, lại thêm một lần nữa,
cuộc đô hộ mới đang xảy ra, thể hiện quyết định của Hội nghị Thành Đô
trên.
Tại nơi
nầy, Việt Nam có Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
thời bấy giờ, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, cố
vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên Trung Cộng có
Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng. Hai bên ký kết Kỷ yếu
hội nghị đồng thuận bình thường hóa quan hệ hai nước. Cuộc gặp mặt bí
mật này không được công bố trong nước cho tới khi “bị” bật mí vàoi những
ngày đầu năm 2013..
Ngày
5/11/1991, Đỗ Mười, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam và Võ Văn Kiệt,
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến Trung Cộng. Ngày 7/11/1991, hiệp định
mậu dịch Trung - Việt và hiệp định tạm thời về việc xử lý công việc biên
giới hai nước đã được ký tại Nhà khách quốc gia Điếu Ngư Đài, Bắc Kinh.
Tiếp
theo sau, dưới thời Tổng Bí thư cs Lê Khả Phiêu, Việt Nam ký hai Hiệp
định Biên giới trên bộ và phân chia vịnh Bắc Bộ với Trung Cộng. Theo báo
chí “chiều phải” của Việt Nam, Việt Nam có quan hệ mật thiết "môi hở
răng lạnh" với Trung Cộng. Hai nước đều do hai Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Cuối
cùng, công cuộc thực hiện Bắc thuộc hoàn toàn bằng cách biến Việt Nam
thành Nam Việt, một tỉnh theo quy chế tự trị phía Nam thuộc Trung
Cộng…và ngôi sao thứ năm trên lá cờ TC đã xuất hiện trong các cuộc giao
tiếp hòa đàm giữa TC và VN từ năm 2011…để chờ ngày chính thức công bố tự
trị vào năm 2020? (Lá cờ TC với 5 ngôi sao xuất hiện lần đầu tiên
truyền hình Việt Nam vào ngày 11/10/2011 nhân chuyến viếng thăm TC của
Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư cs VN để xác định “16 chữ vàng” một lần
nữa là: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng
tới tương lai”).
Chính
quan hệ mật thiết môi hở răng lạnh của hai đảng cộng sản cộng thêm sự
hèn yếu của cs Bắc Việt khiến cho tiến trình Bắc thuộc ngày càng hiện rõ
thêm qua nhiều chỉ dấu từ đó đến nay:
Tiến trình Bắc thuộc lần thứ 5:
- Di dân Trung Hoa vào Việt Nam
Trước
năm 2008, người Trung Hoa khi vào Việt Nam được miễn nhiễm visa (hộ
chiếu) và có thể di chuyển tự do trong phạm vi miền Bắc mà thôi. Cuối
năm 1980, Thủ tướng cs Nguyễn Tấn Dũng lại miễn hộ chiếu và nới rộng
vùng di chuyển của ngưới Tàu đến tận Cà Mau. Quyết định nầy chính là
điểm mấu chốt và là điểm khởi đầu thực sự trong âm mưu Hán hóa Việt Nam
của TC.
Có thể
nói hiện nay, sự hiện diện của người Tàu trên khắp hang cùng ngõ hẹp của
đất nước. Trong hơn 65 Khu chế xuất, Khu công nghiệp tập trung, không
đâu là không thấy công nhân, quản đốc và chủ nhân người Hoa, trong lúc
người lao động Việt Nam khắp nơi phải chịu cảnh thất nghiệp! Trong các
nhà máy sản xuất có tính cách quốc phòng như nhà máy phát điện nhà máy
gang thép, sản xuất hóa chất công nghiệp…đầu đâu cũng có chủ nhân và
công nhân người Tàu…
Ngoài 9
tỉnh địa đầu hầu như chịu ảnh hưởng của người Tàu, đường xá mang tên
Tàu, hàng quán, chợ búa mang tên Tàu, thậm chí cung cách trang hoàng
những ngày Tết cũng đậm nét Tàu như treo lồng đèn đỏ dọc theo các đường
phố chính, chưng bày hàng hóa thực phẩm Tàu…
Trên
306.000 hecta đất cho Tàu thuê mướn trong 50 năm với giá rẻ mạt, chiếm
toàn những vị trí chiến lược trọng yếu ở Bắc Việt, như căn cứ Tam Điệp
là nơi Bộ Chính trị cs VN “chạy trốn” trong giai đoạn chiến tranh năm
1979!
- Đồng hóa tiệm tiến các dân tộc thiểu số miền Cao nguyên Trung phần
Hiện
tại, TC đã phối hợp một cách gián tiếp với người Chăm và người thiểu số ở
cao nguyên Bolloven bên Lào, Cambodia và nhập nhằng tóm gọn các dân tộc
Chăm và Thượng làm một, dưới danh nghĩa Fulro/Chăm để khích động nhu
cầu dành lại chủ quyền của vương quốc Champa do một nhóm người Chăm bên
Pháp dưới quyền lãnh đạo của một Tiến sĩ người Chăm cổ súy. Nhóm nầy
cũng đã được hỗ trợ của thực dân Pháp vốn đã có nhiều quyền lợi tại vùng
cao nguyên nầy hồi thời thuộc địa. Cũng cần nên biết thêm, người Thượng
ở vùng cao nguyên hiện tại cũng đã được các hội thiện nguyên và tôn
giáo Hoa Kỳ yễm trợ dưới danh nghĩa DEGA.
Theo
tin tức được loan tải trên mạng lưới toàn cầu, họ đã hình thành tổ chức
The Cham National Federation of Cambodia (CNFC) và đã được Liên Hiệp
QUốc công nhận qua Department of Economic and Social Affairs (DESA) dưới
quy chế tham mưu (consultative status) kề từ năm 2009.
Một tổ
chức thứ hai là The Overseas Cham Unity Organization (OCUO) cũng đang
xúc tiến đưa hồ sơ lên LHQ và Thụy Điển để ghi danh xin thành lập Chính
phủ lưu vong Chăm (The Cham National Government In Exile). Chính phủ nầy
sẽ ở ngoài lãnh thổ truyền thống của Champa là miền Trung VN, mục đích
nhằm duy trì sự hiện hữu của chính phủ hoàng gia Champa trước đây. Cũng
theo dự định, chính phủ nầy sẽ phác thảo bản hiến pháp và triệu tập Đại
hội để bầu ra Thủ tướng và các Bộ trưởng vào nội các.
Qua các
tin tức trên, chúng ta thấy rõ ràng là phải có bàn tay lông lá của TC
mới thực hiện được những dự tính thành lập chính phủ lưu vong của người
Chăm. Theo một nguồn tin đáng tin cậy, chính phủ lưu vong ban đầu sẽ đặt
trụ sở tại đảo Hải Nam (TC), nơi có một cộng đồng thiểu số người Chăm
nay gọi là Utsat cư ngụ. Cộng đồng người Chăm nầy theo sử liệu đã sang
tị nạn và định cư tại đây vào thời Lưu Kỳ Tông, một ông vua tiếm ngôi
không phải gốc Chăm đã có một thời áp dụng chính sách cai trị hà khắc
với dân tộc Chăm năm 988.
Nhưng
chỉ một thời gian ngắn sau đó, dự định trên đã được hủy bỏ vì muốn tránh
sự phản kháng của các thành viên LHQ khác, văn phòng chính phủ lưu vong
lấy Thụy Điển làm văn phòng tạm là P.O. Bax 122, SE-33523, Gnosjo, vì
tại nơi nầy, cũng có một tiến sĩ người Chăm định cư nhằm tạo danh nghĩa
để gây áp lực với cs Bắc Việt một khi cần thiết. Và một trụ sở khác của
chính phủ lấy Cambodia làm căn cứ địa đặt tại Phnom Penh, P.O. Box 1635
Phnom Peenh 12000. (Cơ sở nầy một lần nữa bị bại lộ do đó TC phải dẹp bỏ
vào năm 2012).
Sau
cùng, khi “Ông Thầy đỡ đầu” người Pháp của vị tiến sĩ Chăm đan cử ở phần
đầu qua đời, vị tiến sĩ nầy đi tìm chỗ dựa mới là TC và chuyển trục
hoạt động về Malaysia. Nơi đây ông ta đã tổ chức một viện nghiên cứu về
dân tộc Chăm, và có nhiều buổi nói chuyện về sự hình thành dân tộc
Champa do một đại học ở TC đài thọ.
Vậy, câu hỏi được đặt ra là: Trung Cộng giúp người Chăm hải ngoại nhằm mục đích gì?
Câu trả
lời giản dị sẽ là TC muốn hoàn toàn khống chế VN trong lãnh vực chính
trị-kinh tế-quân sự qua việc kiểm soát vùng cao nguyên Trung phần VN.
Nắm được cao nguyên nầy, TC sẽ biến thành một vùng lệ thuộc như miền đất
Tây Tạng năm 1959 và Tân Cương 1960. Đã nắm được yết hầu của VN rồi mặc
nhiên TC có toàn khả năng khống chế lãnh đạo hiện tại của cs Bắc Việt
trong mọi tình huống.
Mặt
khác, nguy hiểm hơn nữa là sự hiện diện của hàng chục ngàn người Tàu
dưới dạng công nhân, hay nhân viên tình bào (?) tại hai địa điểm khai
thác Bauxite là Nhân Cơ ở Đăc Nông và Tân Rai ở Lâm Đồng. Sự hiện diện
nầy, ngoài các yếu tố kinh tế, và quân sự, còn là một chiến lược đồng
hóa người địa phương và thiểu số bằng những cuộc hôn nhân dị chủng
để…vài chục năm sau, những nơi nầy sẽ có những người “thiểu số
mới”….đứng lên đòi tự trị theo tinh thần của Nghị quyết Dân tộc bản địa
của LHQ?
- Ảnh hưởng về Văn hóa và Giáo dục
Trung
Cộng cũng có âm mưu gây ảnh hưởng về văn hóa. Điều nầy đã bàng bạc thể
hiện qua nhiều lể hội có tính cách văn hóa xen lẫn y phục, lời ca, điệu
múa Trung Hoa. Cung cách cấu trúc, bày trí các vỡ kịch cũng đầy máu sắc
và kịch tính Tàu. Những ảnh hưởng trên thể hiện ra sau khi bình thường
hóa quan hệ, cho phép các loại hình văn hóa của Trung Cộng được xuất bản
rộng rãi tại Việt Nam. Rất nhiều các loại phim TC được dịch và trình
chiếu tại các đài truyền hình Trung Ương và địa phương ở Việt Nam.
Một
khía cạnh quan trọng khác là cách đây hơn 3 năm, TC lại thành lập một
Cục giáo dục tiếng Hoa cho người ngoại quốc. Họ đã đào tạo giáo viên
sinh ngữ từ bậc tiểu học. Từ năm 2010, họ đã bắt đầu cung cấp giáo viên
qua việt Nam để giảng dảy tiếng quan thoại. Đây cũng là một âm mưu lâu
dài nhằm đem tiếng Hoa vào trong hệ thống giáo dục VN, chuẩn bị cho công
cuộc Bắc thuôc toàn diện.
- Xuất nhập cảng làm tê liệt các ngành sản xuất VN bằng cách tung hàng hóa với giá rẻ mạt.
Trong
một chuyến viếng thăm TC của Tổng Bí thư cs Nông Đức Mạnh tháng 5/2008,
hai bên quyết tâm và “nhất trí” phát triển hai chiều theo “quan hệ đối
tác hợp tác chiến lược toàn diện”.
Kể từ
khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ kinh tế thương mại
Trung – Việt được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Kim ngạch thương
mại giữa hai nước từ hơn 30 triệu USD năm 1991 lên 22,5 tỷ USD năm
2009, tăng gấp gần 700 lần. TC đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt
Nam. Lợi ích thương mại song phương mang lại cho hai nước là điều dễ
dàng nhìn thấy. Nhưng cùng với thương mại song phương liên tục tăng
trưởng, vấn đề mất cân bằng trong thương mại giữa hai nước đã ngày càng
bộc lộ. Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề nhập siêu trong thương mại với
TC.
Cũng
cần nên nói thêm là TC còn xuất sang Việt Nam nhiều hàng hóa trong lĩnh
vực thực phẩm, tiêu dùng với nhiều sản phẩm có tẩm, ướp, bảo quản, chế
biến, sản xuất bằng các loại hóa chất độc hại, bằng công nghệ gây hại mà
thị trường TC đã tẩy chay khi phanh phui ra các vụ bê bối thực phẩm như
các loại hoa quả, thực phẩm, xí muội, ô mai, nước tương, sữa, trứng
gà..., ngoài ra còn có đồ chơi trẻ em có chứa chì, dày dép, đồ điện tử
độc hại, bạo lực, kích dục, chứa chất nổ, dễ gây thương tích, ảnh hưởng
đến nòi giống, sinh sản....
TC cũng
xuất sang Việt Nam các giống cây trồng, vật nuôi có nguy cơ gây hại đến
các giống loài bản địa, gây hại đến nông nghiệp của nước sở tại như ốc
bươu vàng, đỉa trâu, sâu, nhộng, trùng cho chim cảnh, rùa tai đỏ và một
số giống vật nuôi nguy hiểm khác.... điều đáng lưu ý là những sản phẩm
này tràn lan trên thị trường Việt Nam, không thể kiểm soát được và người
tiêu dùng Việt Nam đang dùng hàng ngày do giá rẻ và không phân biệt
được thật giả, phẩm chất hay xuất xứ.
Về phần
Việt Nam, hàng hóa xuất cảng sang TC của Việt Nam chánh yếu là dầu thô
(năm 2009 xuất trên 8 triệu tấn dầu thô), than đá và một số nông sản và
hầu hết các loại rau đậu, ngô khoaii…Đối lại VN nhập cảng từ TC các mặt
hàng như: máy móc thiết bị, thép, sản phẩm hóa chất, thiết bị vận tải,
bông vải, máy móc cho kỹ nghệ dệt, da giày, phân bón và sản phẩm, máy
móc dùng trong nông nghiệp, và hàng tiêu dùng. Chì tính cho năm 2009,
riêng hàng nhập khẩu từ TC chiếm tới 80% tổng lượng nhập khẩu của Việt
Nam.
Điểm
sau cùng cũng cần nêu ra đây là vấn đề trúng thầu của các doanh nghiệp
TC trong các dự án có tầm vóc quốc gia của Việt Nam mà báo chí trong
nước vẫn đưa lên gần đây. Đa số các dự án lớn đấu thầu công khai thì đều
lọt vào tay nhà thầu TC do giá đấu thầu của họ rất rẻ. Vấn đề tham gia
của TC trong các dự án nhạy cảm, như trồng rừng ở biên giới, dự bán
Bauxite trên cao nguyên Trung phần Việt Nam, các dự án Nhiệt điện ở khắp
nơi từ Hải Phòng cho đến Cà Mau. Nguồn vốn cho vay của TC ngày càng
tăng chiếm hầu hết tổng lượng vốn vay của Việt Nam, dự báo cho một sự lệ
thuộc hoàn toàn của nền kinh tế Việt Nam vào TC.
Tóm
lại, TC dùng đủ mọi thủ đoạn để xuất cảng hàng hóa, vật dụng, thực phẩm
chứa hóa chất độc hại nhằm…ngoài việc làm tê liệt kinh tế VN bằng cách
triệt tiêu các kỹ nghệ nội địa của VN, còn làm hủy diệt sức đề kháng
chống ngoại xâm của các thế hệ thanh niên sau nầy của VN qua kinh nghiệm
ngàn năm giữ nước của dân tộc Việt.
Thay lời kết
Đã hơn
38 năm qua từ ngày lìa xa Đất và Nước, hơn lúc nào hết, âm mưu Bắc thuộc
lần thứ 5 của Trung Cộng lại hiện rõ trong lúc nầy. Chúng ta còn nhớ,
ngay sau khi Liên Sô sụp đổ năm 1991, CS Bắc Việt mới quay về thuần phục
TC.
Và kể
từ đó, trước mặt TC, đảng CSVN mới cam tâm ký hai hiệp ước nhượng đất và
nhượng biển cho Trung Cộng. Thứ nhất là “Hiệp ước về biên giới trên đất
liền giữa Việt Nam – Trung Cộng” ngày 30-12-1999 (mất ải Nam Quan và
thác Bản Giốc), và thứ hai là “Hiệp ước phân định lãnh hải” ngày
25-12-2000 (mất khoảng 10,000 Km2 mặt biển vùng Vịnh Bắc Việt).
Câu
chuyện Tam Sa gồm Hoàng Sa và một số đảo Trường Sa cũng chỉ là kết luận
“tất yếu” của tiến trình dâng đất và dâng biển cho TC mà thôi.
Qua
những sự kiện vừa liệt kê trên đây, chúng ta thấy rõ ràng ÂM MƯU THÔN
TÍNH Việt Nam của TC cũng như lý tính thuần phục của đảng cs Việt Nam
hiện tại.
Đất
Nước là Đất Nước của chung, của cả dân tộc. Từ người lãnh đạo quản lý
Đất Nước cho đến người dân cùng đinh trong xã hội cần phải được dự phần
và chia xẻ trách nhiệm chứ đâu có phải là độc quyền của đảng.
Tóm
lại, cho đến ngày hôm nay, có thể nói qua những phân tích trên đây, mọi
hành xử của đảng CS Bắc Việt đều do CS TC điều khiển từ xa. Việt Nam
hoàn toàn không có khả năng quyết định vận mệnh của đất nước mình nếu
không có sự “góp ý” của TC.
Hiện
tại, 16 chữ vàng và 4 tốt trên đã được Trung Tướng CS Ngô Xuân Lịch, Chủ
nhiệm Tổng Cục Chính trị cùng phái đoàn 11 tướng lãnh cao cấp khác cam
kết và xác định thêm một lần nữa trước Thái thú Tập Cận Bình, Chủ tịch
nước Trung Hoa là:”Quân đội hai nước sẽ gương mẫu thực hiện thỏa thuận
giữa hai Đảng bằng đối thoại”.
Chưa bao giờ đất nước Việt có một tập đoàn lãnh đạo hèn với giặc và ác với dân như hiện tại!
Nhìn lại lịch sử trong quá khứ, vào năm 1428, Vua Lê Lợi lên ngôi sau 10 năm kháng chiến đau thương và gian khổ để:
“Đại cáo Bình Ngô lưng cung nỏ,
Giang sơn thu lại chỉ mười năm”.
Đó là giang sơn Đại Việt thời xưa!
Giang sơn thu lại chỉ mười năm”.
Đó là giang sơn Đại Việt thời xưa!
Và vào
thời cận đại, Cụ Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du để phục quốc đã
phải thốt lên:” Phát cây bụi lá gai góc, khó nhọc để mở ra thế giới này,
không phải là tay chân của hàng nghìn vạn người chúng ta chăng? Sớm
chuyên chở, chiều chuyên chở đất cát để lấp kín khe núi kia, không phải
là máu mỡ mồ hôi của tổ tiên hàng nghìn vạn người chúng ta chăng? Tổ
tiên ta đem nước để lại cho con cháu. Ta là con cháu, ta nhận nước ở tổ
tiên ta. Nước vốn là gia tài của dân ta”.
Và Cụ
viết tiếp:”Sau khi đã duy tân rồi thì dân trí sẽ được mở mang, dân khí
sẽ lớn mạnh, dân quyền sẽ phát đạt, vận mệnh nước ta do dân ta nắm giữ.
Giữa đô thành, nước ta đặt một toà nghị viện lớn. Bao nhiêu việc chính
trị đều do công chúng quyết định. Thượng nghị viện phải đợi trung nghị
viện đồng ý, trung nghị viện phải đợi hạ nghị viện đồng ý mới được thi
hành. Hạ nghị viện là nơi đa số dân chúng có quyền tài phán việc của
trung nghị viện và thượng nghị viện. Phàm là dân nước ta, không cứ sang
hèn, giàu nghèo, lớn bé đều có quyền bỏ phiếu bầu cử. Trên là vua nên để
hay truất, dưới là quan nên thăng hay giáng”.
Lời người xưa còn đó!
Bao giờ giang sơn Đại Việt “mới” sẽ được lấy lại từ tay CS Bắc Việt.
Ngày Quốc Hận 2013
Mai Thanh Truyết