Saturday 30 March 2013

Kinh hãi với bà bộ trưởng y tế Nguyễn Thị Kim Tiến

30-3-2013
Nguyên Anh (Danlambao) - Vừa qua, bà Bộ trưởng Bộ Y Tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã có buổi làm việc với lãnh đạo các sở ngành trực thuộc. Trong đó, ngoài tập huấn kỹ năng nhân viên từ bác sỹ cho đến nhân viên giữ xe, bà Tiến còn 'dạy' cho họ: người bệnh là 'khách hàng' của mình, "đem đến thu nhập cho mình, cần phải chăm sóc chu đáo"
Người đứng đầu bộ y tế cũng kiên quyết cấm bác sỹ nhận phong bì bằng cách... 'ký cam kết', nhưng lại đồng thời cho phép bác sỹ sau khi điều trị cho bệnh nhân thì... được phép nhận phong bì tiền!
Về việc này, bản tin trên báo Thanh Niên tường thuật:
Người nhà bệnh nhân cũng phải ký cam kết không đưa phong bì cho bác sĩ trước và trong khi điều trị còn sau khi điều trị lại là vấn đề khác. Bà Kim Tiến dẫn chứng: “Trong miền Nam, bệnh nhân đưa phong bì cho bác sĩ sau khi đã được điều trị khỏi và nói nếu bác sĩ không nhận quà thì bệnh của tôi không khỏi được".
Theo Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến: "Quà của bệnh nhân biếu bác sĩ sau khi đã được điều trị khỏi phần nhiều thể hiện tình cảm, sự biết ơn của người bệnh với người thầy thuốc nên không thể cấm họ biếu hay cấm bác sĩ nhận quà sau khi đã điều trị mà chỉ cấm nhận trước và trong điều trị”.
Bó tay !
Thứ nhất: đã là bác sỹ, một khi ra trường thì các tân bác sỹ đều phải tuyên thệ lời thề Hippocrates, trong đó không có điều khoản nào nói con bệnh là khách hàng và cho phép nhận quà cả. Bà Kim Tiến là một bộ trưởng mà lại phát biểu hồ đồ, không hiểu vì sao bà lại có cái suy nghĩ đầu voi đuôi chuột như vậy?
Nếu đẩy mạnh y đức nói không với phong bì nhưng lại cho phép nhận quà sau khi khỏi bệnh, bà có đoan chắc là đám bác sỹ sẽ ra giá gói quà thế nào hay không ?
Thế nào là quà ?
Quà trong thời buổi thực dụng ngày nay có thể chỉ là vài ba trăm nghìn nhưng nó cũng có thể vài chục hay vài trăm triệu. Như thế bà mặc nhiên công nhận cái trò hối lộ trong cái ngành mình quản lý !
Là một bộ trưởng một ngành nhiều tai tiếng, sao bà không chặt cái đám sâu móc ngoặc nâng giá thuốc, mỗi một viên đến tay người bệnh đều được bọn chúng ăn chặn cả chục lần. Bọn kê khống giá thiết bị ăn chênh lệch, bọn bác sỹ trong bệnh viện ung bướu ra giá cho con bệnh vài ngàn đô-la để được ưu tiên giải phẫu, chúng tham nhũng trên đầu người bệnh, trong khi nền kinh tế lao đao xuống cấp thì bọn chúng vẫn phè phỡn vì đặc thù của nó lúc nào cũng có bệnh nhân.
Về y đức bà có cảm thấy kỳ cục không khi ai tới bệnh viện cũng phải đóng viện phí trước mới được khám và chữa bệnh?
Đừng đổ cho kinh tế thị trường, nếu nói như vậy thì xem như ngành của bà đã xổ toẹt vào lời thề Hippocrates !
Người dân cứ tưởng rằng với cái tâm và cái tầm bộ trưởng như bà sẽ làm được nhiều việc vĩ mô hơn khi đến tham quan bệnh viện, gặp cảnh bệnh nhân từ dưới gầm giường bò ra nhưng từ đó đến nay cũng đâu có gì thay đổi.
Thay vì tập huấn cho nhân viên nhận quà, bà suy nghĩ dùm người dân tại sao khi tai nạn giao thông người dân luôn tự phát cấp cứu, kẻ bị nạn thì ai cũng về bên kia thế giới? Đơn giản vì họ bị lôi kéo ra khỏi xe không đúng tư thế cũng đủ chết rồi, cái băng ca bằng nhựa cứng và tập huấn thao tác cho các đơn vị địa phương chắc quá khả năng của bà.
Với dân số 90 triệu dân và số lượng nhà thương ít ỏi nằm trong các khu dân cư lớn, người bệnh chỉ biết kéo về thành phố để được điều trị và được yêu cầu... gửi quà tri ân !
Thật là vãi lọ khi tại Việt Nam có một bộ trưởng tuyên bố người bệnh là 'khách hàng' đem nguồn thu nhập đến cho bác sỹ !
 

Tháng tư lừa dối!

30-3-2013
Thất Lĩnh (Danlambao) - Trong tháng 4 có hai ngày đặc biệt là ngày 1.4 (cá tháng tư) và ngày 30.4. Hai ngày này hoàn toàn khác biệt, nhưng với nhiều người lại rất giống nhau, đó là ngày của sự lừa dối! Tôi sinh ra tại miền Tây sông nước sau 30.4.1975. Tôi nhắc đến nơi tôi sinh ra với dụng ý rằng phần lớn người miền Tây thật thà, chân chất và dễ tin. Tôi cũng nằm trong số những con người ngây thơ và dễ tin ấy. Câu chuyện tôi kể ra đây chứng minh cho điều đó. Số là trong xóm tôi có một ông theo Việt Minh tập kết ra Bắc. Có lẽ sau 1975, ông đã gần 50 tuổi và chỉ học lớp 2 nên không được làm quan chức gì ráo dù có huân chương kháng chiến hạng nhất.
Do có nhiều thời gian rảnh rỗi nên ông thường tụ tập những đồng chí đã từng sống và chiến đấu trong bưng biền nhậu nhẹt hằng ngày. Khi thì ông thui một con chó. Máu sống làm tiết canh, phần còn lại chế biến đủ bảy món. Khi thì ông nước con cá lóc thơm lựng uống với ba xị đế. Nói chung là thời điểm đó, tôi chừng 11 hay 12 tuổi, nhìn thấy hình ảnh ông và những đồng đội cũ “ngồi chén chú chén anh” tôi rất khoái nên xáp lại ngồi hóng chuyện. Ông kể biết bao nhiêu chiến tích oai hùng và lừng lẫy của ông và lực lượng Việt Minh sau này đổi tên thành cộng sản Việt Nam. Qua lời ông kể, người lính quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Quân đội Mỹ là những kẻ xấu xa và khát máu. Bọn ngụy quân, ngụy quyền.
Từ lúc lên lớp 7, tôi chú ý nhiều đến môn giáo dục công dân. Tôi thích môn học này. Năm tôi lên lớp 9 hay lớp 10 thì khối XHCN toàn thế giới sụp đổ. Trong đầu óc của tuổi thiếu niên lúc đó, tôi không xem đó là quan trọng. Nhưng trong nhiều tiết học giáo dục công dân, cô giáo tôi khẳng định: có rất nhiều con đường tiến lên XHCN. Nước Nga sụp đổ vì đi sai đường, Việt Nam chúng ta sẽ đi lối khác và sẽ thành công. Tôi vốn dễ tin nên tin tuyệt đối vào điều cô giảng dạy. Tôi cũng tin tuyệt đối chế độ Tư Bản là chế độ người bóc lột người, XHCN là chế độ xã hội lý tưởng và bình đẳng.
Có lần một bạn trong lớp đã đứng dậy hỏi cô trong giờ học: “thưa cô vì sao chế độ XHCN ở Việt Nam mình là công bằng, ưu việt mà người đạp xe lôi (một loại xe thồ ở miền Tây) ngồi phía trước còng lưng đạp, người ngồi sau giống như ông bà chủ vậy?”.
Cô trả lời gì đó tôi không nhớ nhưng tất cả chúng tôi đều không có câu trả lời thỏa mãn. Dù vậy, tôi vẫn tin XNCH là tốt đẹp. Rồi tôi rời quê nhà về Sài Gòn học đại học. Tôi được học môn Lịch sử Đảng. Dĩ nhiên, tôi nghe được những điều tốt về Bác Hồ về đảng cộng sản Việt Nam. Một lần, đột nhiên một bạn học của tôi đứng lên hỏi thầy phụ trách bộ môn: “thưa thầy, vì sao đảng ta quá tốt mà những người phạm tội tham nhũng đều là đảng viên cộng sản chứ không phải người bình thường. Đặc biệt, số lượng phạm tội ngày càng tăng lên???!” Thầy trả lời gì đó tôi nghe cũng không rõ nhưng tụi sinh viên chúng tôi cũng không có câu trả lời thỏa mãn. Nhưng tôi vẫn tin XNCN là chế độ tốt.
Thời gian cứ thế trôi đi. Tôi tình cờ nghe một người thầy nói chuyện với bạn trong căn tin trường vào giờ tan học: Trong chiến tranh Việt Nam, Liên Xô và Trung Quốc yểm trợ cho miền Bắc Việt Nam từ vũ khí, lương thực đến chuyên gia quân sự cấp cao. Mục đích là muốn học thuyết cộng sản bám rễ và lan truyền ở Đông Nam Á. Không có sự hỗ trợ này sức mấy miền Bắc cộng sản chiếm được miền Nam tư bản. Câu chuyện vô tình nghe được gợi trong tôi lòng tò mò và khám phá. Không thể tìm được từ sách vở trong thư viện, thì tôi hỏi người lớn, và lùng tìm trên internet.
Nhiều người đã cho tôi biết rằng: cộng sản Bắc Việt đã dùng chiêu bài dân tộc để xâm chiếm miền Nam tư bản. Họ tuyên truyền miền Nam rước voi về dày mã tổ nhưng bản thân họ cũng rước Liên Xô và Trung Quốc về giày xéo quê hương. Nhưng kẻ thắng làm vua, kẻ thua làm giặc. Thằng thắng thì mạnh miệng nói mình là anh hùng, thằng thua phải chịu nhục. Cộng sản thắng nhưng cách cư xử với kẻ thua cuộc thật đáng hổ thẹn. Những binh sĩ VNCH được nhốt chung với tù hình sự. Họ bị đánh đập, bỏ đói và chà đạp một cách tồi tệ nhất. Họ đối xử với người anh em, đồng bào của họ còn thua súc vật.
Sự cai trị khắc nghiệt của cộng sản đã khiến hàng triệu con người vượt biển tìm chốn tự do. Biết bao sinh linh bỏ mạng qua những cuộc vượt thoát ấy. Vậy mà Cộng sản nguyền rủa những người ra đi là bọn phản bội và bán nước.
Câu chuyện đó làm tôi chú ý hơn đến thực tế cuộc sống. Tôi nhận ra rõ ràng không có công lý và bình đẳng trong xã hội này. Quan chức càng ngày càng giàu lên nhờ bòn rút của người dân, người nông dân bị tước đoạt đất đai nên nghèo càng nghèo hơn, công nhân làm kiệt sức mà chỉ nhận đồng lương rẻ mạt. Con quan chức thì trước sau gì cũng được cơ cấu vào bộ máy quản lý đất nước, còn dân đen thì biết thân kiếm ăn ở chổ khác.
Dưới sự quản lý của cộng sản, con gái đi tha hương kiếm cơm bằng cách lấy chồng què quặt, bệnh tật ở nước ngoài. Tỷ lệ nghiện ngập ma túy trong giới trẻ được xếp vào loại đứng đầu thế giới. Đáng nói hơn, tệ nạn giết người dã man thì không đất nước nào bì kịp. Con giết cha mẹ, vợ giết chồng, chồng giết vợ, hay giết người vì những lý do vớ vẩn đang gia tăng đến đáng sợ. Tôi nghĩ lại chẳng lẽ cái XHCN lý tưởng mà tôi đang sống là thế này sao? Tôi tỉnh ngộ và khẳng định: tôi đang sống trong một đất nước độc tài và bất công.
Nhưng lãnh đạo cộng sản thì luôn nói xã hội Việt Nam đang tốt đẹp. Sự lừa dối này bắt đầu từ miền Bắc từ năm 1930, và ở khắp Việt Nam ngày 30.4.1975. Từ đó, cứ mỗi khi tháng Tư về, tôi lại nhũ thầm: tháng tư lừa dối lại đến với đất nước mến yêu của tôi.
Tôi buồn nhưng tôi hy vọng. Bởi vì, sự lừa dối sẽ không bao giờ có thể tồn tại dài lâu. Và cũng bởi vì, người dân đang mạnh dạn đứng lên vượt qua sợ hãi để đi tìm sự thật của công lý và bình đẳng. Họ sẽ đòi lại nhân quyền, cái quyền cơ bản đã mất đi trên đất nước mến yêu này đã nhiều năm rồi.

Tuesday 26 March 2013

Trung Quốc không xác nhận đã bắn vào tàu cá Việt Nam

26-3-2013

Phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi
Phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi
REUTERS

Anh Vũ
Một ngày sau khi bộ Ngoại giao Việt Nam lên án việc tàu Trung Quốc bắn cháy một tàu cá Việt Nam, ngày 26/03/2013, Bắc Kinh trả lời rằng đó là hành động « chính đáng » bảo vệ chủ quyền của họ trên Biển Đông nhưng từ chối xác nhận việc nổ súng vào tàu Việt Nam.

Theo AFP, được hỏi về vụ tàu Trung Quốc bắn cháy một tàu cá của Việt Nam, phát ngôn viên Ngoại giao Trung Quốc, Hồng Lỗi tuyên bố rằng « Việc có biện pháp chống lại tàu cá Việt Nam xâm nhập trái phép lãnh hải Trung Quốc là điều cần thiết và chính đáng ».
Bị phóng viên dồn hỏi về trường hợp chiếc tàu cá mang số hiệu QNg 96382 TS của ngư dân tỉnh Quảng Ngãi bị bắn cháy ca bin hôm 20/03/2013, phát ngôn viên Hồng Lỗi từ chối xác nhận việc tàu Trung Quốc đã nổ súng vào tàu cá Việt Nam, nhưng lại đưa ra nhận định «chiếc tàu cá Việt Nam không hề bị thiệt hại gì ».
Trong khi đó hôm nay, trên trang mạng báo Tiền Phong đăng bài phóng sự với nhiều hình ảnh ca bin chiếc tàu của ngư dân Quảng Ngãi bị cháy rụi cùng với lời kể chi tiết của thuyền trưởng Bùi Văn Phải và các ngư dân về việc bị tàu Trung Quốc mang số hiệu 786 đuổi bắn khi họ đang đánh bắt cá trong khu vực đảo Lin Côn thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Đây không phải là lần đầu tiên, các tàu của ngư dân Việt Nam đang hoạt động trong ngư trường truyền thống xung quanh khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị các tàu của Trung Quốc tấn công. Vài năm gần đây đã có cả trăm trường hợp tàu cá Việt Nam bị phía Trung Quốc bắt giữ tịch thu ngư cụ, đòi tiền chuộc.

tags: Biển Đông - Châu Á - Hoàng Sa - Trung Quốc - Việt Nam
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130326-trung-quoc-tu-choi-xac-nhan-da-ban-vao-tau-ca-viet-nam  
 
*

Việt Nam : Báo chí đồng loạt tố cáo Trung Quốc bắn cháy tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi

 

Saturday 23 March 2013

Trung quốc cần bao nhiêu năm để đánh chiếm trọn Việt Nam?

2-2013
Dân đọc báo (Danlambao) - Có một số người chỉ chống cộng sản đến biên giới Việt-Trung rồi dừng lại. Họ không muốn và không thèm tìm hiểu kẻ mà chính quyền Việt Nam quỳ lạy, mạnh yếu về mặt gì. Họ không nhìn xa hơn những mối nguy thấy bằng mắt, nghe bằng tai như Trường Sa, mỏ quặng bị đào xới, đồ ăn bị ngộ độc, sách vở bị in cờ Trung Cộng... Họ hô hào rằng Trung Quốc xâm lăng Việt Nam nhưng không biết xâm lăng kiểu nào?
Nếu ai tìm hiểu văn hóa quân sự của Trung Quốc thì phải đọc cho bằng được Tôn Tử Binh Pháp. Và từ đó họ sẽ hiểu ra rằng Trung Quốc chỉ cần vài ba năm nữa là có thể chiếm trọn Việt Nam, từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau bằng quân sự!!! 
Với cách nào?
Bằng cách giúp đỡ kinh tế lẫn quân sự cho Lào và Miên, thần phục hai nước này rồi từ đó mượn đường đánh úp qua ngã biên giới, mô hình chiến tranh Việt Trung năm 1979 nhưng trên với hơn phân nửa biên giới của Việt Nam. 
Những chiến tuyến không những chỉ ở Cao Bằng, Lạng Sơn, mà cũng sẽ là Điện Biên Phủ, Khánh Thành, Lao Bảo, Kon Tum, Pleiku, Ban Mê Thuột, Tây Ninh, Châu Đốc, Hà Tiên!
Khi Việt Nam mất thì tự nhiên Campuchia và Lào cũng sẽ thuộc về Trung Quốc.
Với những vụ giằng co Trường Sa, Hoàng Sa, Ải Nam Quan... những người yêu nước lẫn chế độ cộng sản bị kế sách Minh tu sạn đạo, ám lộ Trần Thương, (làm đối phương chú ý mặt này nhưng lại đánh mặt khác).
Việt Nam xây dựng lực lượng biển, mua sắm tàu chiến lẫn tàu ngầm, Trung Quốc chỉ phản đối cho có lệ dù có khả năng gây áp lực để cấm đoán Việt Nam. Đó cũng là ý đồ của Trung Quốc. Họ dư thừa biết là với tàu bay, máy bay, tàu ngầm mua của Nga, họ chẳng có thể đi đâu xa. 
Nếu Trung Quốc muốn xây dựng một cường quốc về hải quân thì phải cần 15, 20 năm nữa mới khống chế được Việt Nam. Mà nếu lúc đó Trung Quốc muốn đánh thì phải dè chừng liên minh Nhật, Philippines, Mỹ...
Với cách đánh trong đất liền đánh ra, ngoại trừ gởi quân lính tham chiến trực tiếp, các nước khác chỉ biết ngồi ngó! 
Sở trường của quân đội Trung Quốc lối đánh thí quân. Và Trung Quốc sẽ cấp tốc giải quyết chiến trường, khi những quốc gia khác mới vừa kịp mở miệng ra phản đối, Việt Nam đã đầu hàng!
Chiếm lược Việt Nam sẽ có lợi gì cho Trung Quốc?
Trước hết là giải quyết được vấn đề nhân mãn, trai thiếu gái thừa của Trung Quốc. Đàn ông thanh niên Trung Quốc khỏi cần qua nước khác mua vợ đem về nước. Cứ vào Việt Nam, tỉnh lỵ mới của Trung Quốc mà tìm!
Thứ hai nữa là bỏ được những vùng đất bị sa mạc hóa ở miền Bắc mà di dân xuống miền Nam trù phú hơn. 
Thứ ba nữa là chiến thắng này sẽ cho làm dân chúng Trung Quốc làm dịu đi tinh thần chống đối chính quyền, quên đi những bất công, tham nhũng. Chế độ xã hội chủ nghĩa Trung Quốc có thêm luồng sinh lực mới!!!
Xâm chiếm Việt nam là một vấn đề sống chết của chính quyền Trung Quốc.
Vậy Trung Quốc cần những điều kiện nào để thực hiện kế hoạnh này?
1. Cần hai nước Campuchia và Lào thần phục. 
2. Xây dựng hệ thống đường sá, hậu cần như xa lộ, đường rày từ Trung Quốc xuống tới Campuchia với danh nghĩa kinh tế, giao thương từ Vân Nam- Vạn Tượng- Nông Pênh.
3. Xúi dục hai nước này gây hấn với Việt Nam rồi từ đó hổ trợ quân sự và tìm cách ém quân một cách danh chính ngôn thuận khắp biên giới.
Để khi đủ điều kiện, bất ngờ xua quân chiếm trọn Việt Nam trong vòng 7 đến 10 ngày!!!
Điều 1 kể như là xong, Việt Nam là kẻ thù muôn đời của hai nước này. Trong dân gian của Campuchia vẫn truyền tụng lại câu chuyện của lính Việt Nam chặt đầu dân Miên để làm gạch kê nồi nấu cơm. Dù có hay không nhưng cũng nên hiểu rằng những lỗi lầm của ông cha ta, chúng ta sẽ phải trả. Cộng thêm mười mấy năm chiếm đóng của cộng sản Việt Nam cũng chẳng làm tốt đẹp được quan hệ của hai nước này đối với Việt Nam. Hai quốc gia này sẽ reo vui khi thấy Việt Nam bị hạ. Còn việc gì kế tiếp xảy ra với họ thì vẫn còn xa.
Điều 2 thì chỉ cần hai, ba năm nữa là xong.
Điều 3 thì cần 3, 5 năm nữa thì cũng xong tốt. 
Vận mạng quốc gia Việt Nam như là cá trên thớt, chỉ mành treo chuông. 
Nếu Trung Quốc đánh vào Việt Nam thì quân đội Việt Nam sẽ thua.
Thua toàn diện.
Chúng ta thua vì quân số ít hơn, vũ khí thô sơ hơn đã đành. Nhưng chúng ta sẽ thua vì những lý do sâu xa hơn. 
Mượn một khúc truyện Tàu để hiểu cái gì là mưu mô của Trung Quốc. Trong truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ, hồi 108, nhân vật Hướng Vấn Thiên của Nhật Nguyệt Thần Giáo biết rõ những nhân vật những nhân vật thành danh trong võ lâm mà còn hiểu cả đến hàng đệ tử bình thường như Lao Đức Nặc, Thi Đới Tử… Lão cũng kể rành mạch lai lịch và cá tính của từng người, lai lịch cường nhược ra sao. (Nhật Nguyệt Thần Giáo được Kim Dung ám chỉ là đảng cộng sản Trung Quốc. Những ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, Nguyễn Ngọc Huy).
Chúng ta bị nội gián. 
Không thua sao được khi tình báo của Trung Quốc biết rõ ai làm tham mưu trưởng, sư đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng, bao nhiêu quân, đóng đâu, sẽ phản ứng như thế nào …
Không thua sao được khi quân đội Việt Nam được chỉ huy bởi những vị tướng nổ banh trời rằng đã đánh giặc từ 10, 15 tuổi, bắn rớt không biết bao nhiêu chiếc máy bay, và nhiều vị tướng đó đã được tạo điều kiện để lên lon nắm quyền bởi... Trung Quốc!!! 
Sự chiến thắng hết còn nhờ cậy vào những tướng lãnh, mà phải nhờ cậy vào hàng hạ sĩ quan, sĩ quan cấp thấp và binh sĩ. 
Việt Nam phải làm gì để đối phó?
Phải dân chủ, càng sớm càng tốt.
Nếu dân chủ thì chính quyền tương lai mới mời được những người dày dặn chiến trường bên VNCH hay những người về hưu của Quân đội Việt Nam ra làm cố vấn cho lực lượng quân đội Việt Nam hiện tại. Sư đoàn trưởng sẽ được kèm bởi những cựu sư đoàn trưởng, đại đội trưởng sẽ được cố vấn bởi những cựu đại đội trưởng. Những tổ pháo binh sẽ học hỏi từ những cựu pháo thủ. 
Nhân dân ủng hộ quân đội, tinh thần ái quốc sẽ trở lại. 
Trung Quốc sẽ bỏ đi ý tưởng xâm lăng.
 

Việt Nam mị dân qua lá bài phản đối Trung Quốc!

22-3-2013
Thất Lĩnh (Danlambao) - Vào ngày 22.3, tàu ngư chính 312 của Trung Quốc thực hiện chuyến tuần tra phi pháp đến Trường Sa. Trước đó, không lâu thì hai tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi đánh bắt tại vùng biển gần đảo Trường Sa thì bị tàu Trung Quốc xua đuổi. Cả hai lần bộ ngoại giao Việt Nam đều lên tiếng phản đối nhưng cái cách phản ứng lập đi lập lại rất yếu ớt ấy khiến nhiều người nghi ngờ: Lãnh đạo cộng sản Việt Nam có thực lòng phản đối Trung Quốc hay chỉ là đòn gió đánh lạc hướng dư luận.
Ngay sau khi hai tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi bị tàu Trung Quốc rượt đuổi trong vùng lãnh hải Việt Nam, cư dân mạng đã đặt ra câu hỏi: lúc đó thì hải quân Việt Nam hay các lực lượng trên biển của Việt Nam ở đâu mà không hỗ trợ cho người dân của mình? Sau sự kiện tàu ngư chính 312, được cho là tàu ngư chính lớn nhất của Trung Quốc, xâm phạm Trường Sa, thì bộ ngoại giao cũng chỉ làm được mỗi việc lên tiếng phản đối Trung Quốc mà không có một động thái nào khác.
Tất nhiên, không ai yêu cầu chính phủ Việt Nam đem tàu và súng ra đấu tay đôi với Trung Quốc. Bởi vì, Việt Nam là một nước nhỏ, nghèo và yếu thế hơn Trung Quốc vì thế đối đầu trực diện bằng vũ trang sẽ là một giải pháp không thông minh. Nhưng phản ứng của chính phủ Việt Nam như thời gian vừa qua là chưa đủ. Đại diện Ủy ban biên giới quốc gia Việt Nam cho biết: “ Việt Nam có đầy đủ chứng cứ pháp lý và lịch sử khẳng định chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa và Trường Sa”. Thế nhưng vì sao Việt Nam không dùng tất cả chứng cứ đó kiện Trung Quốc tại tòa án quốc tế giống như Philipines đã làm cách đây không lâu?
Ai cũng hiểu rằng chủ quyền lãnh thổ là vô cùng thiêng liêng. Một quốc gia dù nhỏ đến đâu cũng phải đấu tranh mạnh mẽ và quyết liệt để bảo vệ sự thiêng liêng đó. Một nước nhỏ như Philipines dám đem trực thăng đuổi tàu Trung Quốc khi xâm nhập Bãi Cạn của họ và sau đó, nước này đâm đơn kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế. Họ dám hành động như thế bởi vì lãnh đạo của họ không hề bị lệ thuộc vào Trung Quốc từ tiền bạc đến thế lực chính trị. Trong khi đó, lãnh đạo cộng sản Việt Nam trước mỗi lần bầu lãnh đạo mới đều phải báo cáo với Trung Quốc. Sự lệ thuộc này giúp cho lãnh đạo cộng sản Việt Nam củng cố sức mạnh cai trị của giai cấp cầm quyền, nhưng đi ngược lại nguyện vọng nhân dân vì đánh mất chủ quyền quốc gia.
Nhiều người hiểu rằng, Philipines dám kiện Trung Quốc vì họ là đồng minh của Hoa Kỳ. Việt Nam hiện tại không có một đồng minh thực sự nào chống lưng nên không dám chống Trung Quốc vì yếu thế và lực. Hơn nữa, vì những ràng buộc trong quá khứ trong đó có cam kết ở hội nghị Thành Đô đã khiến lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải phục tùng Trung Quốc bằng mọi giá. Lãnh đạo cộng sản Việt Nam thấy rằng nếu bỏ Trung Quốc thì mất quyền cai trị đất nước nên đành thực hiện chính sách “ỡm ờ” là vừa lên tiếng phản đối nhưng bên trong chịu phục tùng. Sự phục tùng được thấy rõ nhất qua việc bắt bớ, kêu án rất nặng với những công dân phản đối sự xâm lược của Trung Quốc. 
Trong khi đó, sự căm phẫn của người dân trước sự xấc xược của Trung Quốc đã lên đến đỉnh điểm. Thái độ này của người dân đã đặt lãnh đạo cộng sản Việt Nam vào thế “tiến thoái lưỡng nan” theo Trung Quốc bị dân chống, mà chống Trung Quốc thì sợ mất quyền. Vì thế, họ đã chọn giải pháp “trung dung” là lên tiếng phản đối mỗi khi Trung Quốc xâm phạm lãnh hải. Chỉ có thế không hơn không kém! Nhìn ở phía khác, cộng sản Việt Nam cũng dùng tâm lý chống Trung Quốc để khiến người dân lãng quên những sự kiện quốc nội. Mỗi khi có mâu thuẫn về đất đai với nông dân, hay người dân đòi tự do dân chủ thì “lá bài chống Trung Quốc” được sử dụng để tranh thủ sự đồng thuận của toàn dân. Cuối cùng thì họ sử dụng lá bài chống Trung Quốc để khơi dậy chủ nghĩa dân tộc nhằm đánh lạc hướng sự quan tâm của người trước hiện thực cay đắng trước mắt mà thôi. 
Một chế độ chính trị mị dân như cộng sản Việt Nam rõ ràng không quan tâm đến sự tồn vong của dân tộc, mà chỉ vì lợi ích của nhóm lãnh đạo. Đây là một chế độ không đủ tư cách để điều hành và quản lý đất nước. Vì vậy, người Việt Nam cần phải nổ lực tạo ra một chế độ mới thực sự vì dân và vì dân tộc

Những điều đảng viên đảng CS được làm

ĐT: Dựa trên 3 văn kiện đã được công bố, QĐ 55 1999(BCT khoá 8), QĐ 115 2007(BCT khoá 10) va QĐ 47 2011(BCT khoá 11), có lẽ đảng CSVN nên đổi lại nhan đề QĐ là “những điều đảng viên được làm”
                     
                         
Quy định của Bộ Chính trị số 55-QĐ/TW: “Những điều đảng viên không được làm”, ngày 12 tháng 5 năm 1999 (BCT khóa 8)
14:43 | 19/07/2006 Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, nhằm giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới;
- Căn cứ Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng;
- Căn cứ Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị quy định :
I- NHỮNG ĐIỀU ĐẢNG VIÊN KHÔNG ĐƯỢC LÀM
1- Nói và làm trái Cương lĩnh, Điều lệ của Đảng; những điều mà pháp luật hiện hành không cho phép công dân, cán bộ, công chức được làm.
2- Phát ngôn, tán phát tài liệu (bài viết, bài nói, tờ rơi, băng ghi hình, băng ghi âm…) và xúi giục người khác phát ngôn, tán phát tài liệu để truyền bá những quan điểm trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, trái với quyết định của tổ chức đảng.
3- Tố cáo sai sự thật, viết đơn thư tố cáo nặc danh, mạo danh; tổ chức, kích động, phụ hoạ, xúi giục, lôi kéo, mua chuộc, cưỡng ép người khác đi khiếu kiện, hoặc viết, ký tên vào đơn thư khiếu kiện tập thể.
4- Tổ chức, tham gia mít tinh, biểu tình mà không được tổ chức có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước cho phép.
5- Tổ chức, tham gia các hoạt động bè phái, gây mất đoàn kết, gây chia rẽ cục bộ địa phương, dòng họ.
6- Đả kích, vu cáo, xúc phạm, đe doạ, trấn áp, trù dập người phê bình, góp ý kiến trái với ý mình.
7- Tự ý ứng cử hoặc tự nhận đề cử đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân,… khi chưa được tổ chức đảng có thẩm quyền giới thiệu hoặc cho phép.
8- Quan liêu, thiếu trách nhiệm để cơ quan, địa phương, đơn vị của mình xảy ra tình trạng mất đoàn kết, tham ô, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác.
9- Lợi dụng chức quyền trong việc giao, nhận dự án; giấy phép xuất, nhập khẩu; cấp hạn ngạch (quota), cấp đất, cấp nhà, cấp các loại vốn,… sai quy định của Nhà nước.
10- Chủ trì tham mưu, đề xuất, tham gia ban hành các quyết định, quy định của địa phương trái với chính sách, quy định của Đảng và Nhà nước.
11- Nhận hoặc yêu cầu cấp dưới, các tổ chức kinh tế – xã hội và cá nhân đóng góp kinh phí ngoài quy định của Nhà nước để dùng cho việc giao dịch, biếu xén, hối lộ, chi tiêu cho cá nhân và tập thể.
12- Đưa, nhận hoa hồng thông qua hoạt động môi giới và giao thầu, nhận thầu các công trình kinh tế, xã hội trái quy định của Nhà nước.
13- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bản thân, người trong gia đình đi du lịch, tham quan, học tập ở trong nước và nước ngoài bằng kinh phí của Nhà nước, tập thể hoặc bằng nguồn tài trợ của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền.
14- Can thiệp, tác động sai quy định đến cá nhân, tổ chức để người khác được đề bạt sai tiêu chuẩn; lợi dụng chức quyền để tuyển dụng, sắp xếp, bố trí cán bộ vì mục đích cá nhân; ép buộc hoặc mua chuộc cá nhân hoặc tổ chức để bao che, giảm tội cho người khác.
15- Dùng công quỹ mua sắm trang thiết bị nội thất, phương tiện đi lại, thông tin liên lạc vượt quá định mức và sử dụng vào việc riêng.
16- Dùng công quỹ để tiếp khách, tặng quà vượt quá quy định cho phép; xây dựng các công trình hoặc chi cho các hoạt động vui chơi, giải trí cho cá nhân và một số ít người.
17- Tham gia đánh bạc, “số đề”, cá cược, say rượu, bia, ăn uống bê tha làm mất tư cách; tổ chức tham gia các dịch vụ không lành mạnh (bia ôm, karaôkê ôm, mát sa ở nhà hàng…).
18- Mê tín dị đoan và hoạt động mê tín dị đoan.
19- Tổ chức việc tang, việc cưới, mừng ngày lễ, mừng sinh nhật, mừng thọ, mừng nhà mới, mừng lên chức, kỷ niệm ngày cưới, chuyển công tác… quá mức bình thường, nhằm mục đích vụ lợi.
II- XỬ LÝ VI PHẠM VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Đảng viên vi phạm quy định này là vi phạm kỷ luật Đảng. Nếu vi phạm đến mức phải xử lý thì phải thẩm tra, xác minh, kết luận, xử lý công minh, chính xác, kịp thời theo quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước.
2- Giao Uỷ ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn thực hiện quy định này và sáu tháng một lần báo cáo Bộ Chính trị về tình hình thực hiện.
Các cấp uỷ đảng có trách nhiệm lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt quy định này.
Trong quá trình thực hiện quy định này có vấn đề cần sửa đổi, bổ sung thì báo cáo Bộ Chính trị xem xét quyết định.
3- Quy định này có hiệu lực từ ngày ký, áp dụng với mọi đảng viên, được phổ biến đến chi bộ để thực hiện.
T/M BỘ CHÍNH TRỊ
Phạm Thế Duyệt

Quy định số 115-QĐ/TW ngày 7/12/2007 của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm (BCT khóa 10)
13:40 | 21/12/2007

- Căn cứ Điều lệ Đảng;
- Căn cứ Quy chế làm việc của Ban Chấp hành  Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư (khoá X);
- Để tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng và giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, tính tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng,
 BỘ CHÍNH TRỊ QUY ĐỊNH
I. Những điều đảng viên không được làm
1- Nói hoặc làm trái Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của Đảng; làm những việc mà pháp luật không cho phép công dân, cán bộ, công chức làm.
2- Cung cấp những thông tin, tài liệu bí mật của Đảng và Nhà nước hoặc những việc chưa được phép công bố; tuyên truyền, tán phát hoặc xúi giục người khác tuyên truyền, tản phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những quan điểm trái với đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
3- Tố cáo mang tính bịa đặt; viết đơn, thư tố cáo nặc danh, mạo danh; viết, ký tên tập thể vào đơn, thư tố cáo. Tổ chức, tham gia kích động, xúi giục, mua chuộc, cưỡng ép người khác khiếu nại, tố cáo. Gửi, tán phát đơn, thư khiếu nại, tố cáo đến những nơi không có thẩm quyền giải quyết.
4- Tổ chức, xúi giục, tham gia các hoạt động bè phái, chia rẽ, cục bộ gây mất đoàn kết. Lợi dụng việc phát ngôn, nhân danh việc phản ánh, góp ý kiến đối với Đảng để đả kích, vu cáo, xúc phạm, nhận xét, đánh giá tuỳ tiện đối với người khác. Đe dọa, trù dập người tố cáo, phê bình, góp ý trái với ý kiến mình.
5- Viết bài, cho đăng tải tin, bài sai sự thật, vu cáo, bịa đặt hoặc quy kết về tội đanh, mức án trước khi xét xử, không đăng tải ý kiến phản hồi, cải chính theo quy định của pháp luật. Sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật, viết, phát hành hồi ký không lành mạnh, không đúng sự thật, mang tính kích động gây ảnh hưởng xấu trong xã hội.
6- Tổ chức, tham gia các hội trái quy định của pháp luật. Tổ chức, tham gia mít tinh, biểu tình khi chưa được cấp có thẩm quyền cho phép.
7- Không chấp hành sự phân công, điều động của tổ chức đảng, đảng viên tự ứng cử, cấp uỷ viên tự ứng cử hoặc tự nhận đề cử vào các chức danh của tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị – xã hội khi chưa được các tổ chức đảng có thẩm quyền giới thiệu.
8- Quan liêu, thiếu trách nhiệm, bao che, báo cáo sai sự thật, để cơ quan, đơn vị, địa phương do mình trực tiếp phụ trách xảy ra tình trạng mất đoàn kết, tham nhũng, buôn lậu, lãng phí, thất thoát tài sản và các tiêu cực khác.
9- Làm trái quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong những việc: quản lý nhà, đất, quỹ, thuế; kinh doanh chứng khoán, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; các hoạt động giám định quản lý và cấp phát các loại giấy đăng ky, giấy chứng nhận, giấy phép; cấp, sử dụng, chứng thực, xác nhận hồ sơ, tài liệu, văn bằng, chứng chỉ; thẩm định, phê duyệt, đấu thầu, giao, nhận dự án; giao đất; tuyển dụng, sắp xếp, bố trí, kỷ luật cán bộ, công chức và người lao động; kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
10- Can thiệp, tác động đến cá nhân, tổ chức để bản thân hoặc người khác được bổ nhiệm, đi học, đi nước ngoài trái quy định của pháp luật. Ép buộc, mua chuộc cá nhân hoặc tổ chức để bao che, giảm tội cho người khác.
11- Chủ trì, tham mưu, đề xuất, tham gia ban hành các văn bản trái với quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Cố ý để người thân lợi dụng vị trí công tác của mình trục lợi.
12- Đưa, nhận, môi giới hối lộ; môi giới làm thủ tục hành chính hoặc lợi dụng vị trí công tác để môi giới hưởng thù lao dưới mọi hình thức trái với quy định của pháp luật. Đưa, nhận hoa hồng hoặc môi giới đưa, nhận hoa hồng trái quy định của pháp luật.
13- Kê khai không đầy đủ tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật; trốn, trì hoãn nộp thuế; mở tài khoản ở nước ngoài trái quy định của pháp luật; tham gia hoạt động rửa tiền.
14- Dùng công quỹ xây dựng công trình, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc, đi lại, thông tin liên lạc vượt quá định mức và sử dụng trái quy định của pháp luật.
15- Dùng công quỹ để tiếp khách, tặng quà trái quy định của pháp luật hoặc để xây đựng các công trình vui chơi giải trí cho một số ít người. Cho thuê, cho mượn tài sản của Nhà nước được giao quản lý, sử dụng trái quy định của pháp luật.
16- Tự mình hoặc để người trong gia đình đi du lịch, tham quan, học tập, chữa bệnh ở trong nước hoặc ngoài nước bằng nguồn tài trợ của tổ chức trong nước hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền.
17- Tổ chức, thạm gia đánh bạc, số đề, cá cược, cho vay trái quy định của pháp luật, sử dụng các chất ma tuý; uống rượu, bia đến mức bê tha, mất tư cách và các tệ nạn xã hội khác.
Vi phạm đạo đức nghề nghiệp, có hành vi bạo lực trong gia đình, vi phạm chính sách dân số ,và kế hoạch hoá gia đình, sống chung với người khác như vợ chồng; bản thân hoặc để con kết hôn với người nước ngoài trái quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
18- Mê tín, hoạt động mê tín (hành nghề đồng cốt, thầy cúng, thầy bói; lập đền, miếu trái phép; ủng hộ hoặc tham gia tôn giáo bất hợp pháp).
19- Tổ chức việc cưới, các ngày lễ, tết, sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới; mừng thọ, mừng nhà mới, lên chức, chuyển công tác nhằm vụ lợi.
II- Tổ chức thực hiện và xử lý vi phạm
1- Giao Uỷ ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn thực hiện Quy định này và giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
Các cấp uỷ đảng có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Quy định và định kỳ hằng năm phải báo cáo với cấp uỷ cấp trên tình hình thực hiện Quy định này qua uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ cấp trên.
Trong quá trình thực hiện, có vấn đề cần bổ sung, sửa đổi thì báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định.
2- Đảng viên vi phạm Quy định này là vi phạm kỷ luật Đảng. Nếu vi phạm thì tiến hành thẩm tra, xác minh, kết luận, xử lý công minh, chính xác, kịp thời theo quy định của Đảng và pháp luật  của Nhà nước.
3- Quy định này thay thế Quy định số 19-QĐ/TW, ngày 03-01-2002 của Bộ Chính trị (khoá IX) về những điều đảng viên không được làm, có hiệu lực từ ngày ký và phổ biến đến chi bộ để thực hiện.
T/M BỘ CHÍNH TRỊ
(đã ký)
Trương Tấn Sang







Quy định mới về những điều đảng viên không được làm (BCT khoá 11)
22:16 | 28/02/2012
(ĐCSVN) – Ngày 1/11/2011, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký Quy định số 47-QÐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, quy định về những điều đảng viên không được làm. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn Quy định này:
- Căn cứ Điều lệ Đảng;
- Căn cứ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Căn cứ Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư khoá XI;
- Để tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng và giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, tính tiền phong gương mẫu của đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng,
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG QUY ĐỊNH
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; cùng với việc gương mẫu chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các quy định của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội mà mình là thành viên, phải chấp hành nghiêm chỉnh những quy định cụ thể của Đảng về những điều đảng viên không được làm.
I- Những điều đảng viên không được làm
1- Nói, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của Đảng; làm những việc mà pháp luật không cho phép.
2- Cung cấp, để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng những thông tin, tài liệu bí mật của Đảng và Nhà nước hoặc những việc chưa được phép công bố; tàng trữ, tuyên truyền, tán phát hoặc xúi giục người khác tuyên truyền, tán phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những quan điểm trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
3- Viết bài, cho đăng tải tin, bài sai sự thật, vu cáo, bịa đặt hoặc quy kết về tội danh, mức án trước khi xét xử, không đăng tải ý kiến phản hồi, cải chính theo quy định. Sáng tác, sản xuất, tàng trữ, tán phát các tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật không lành mạnh, mang tính kích động gây ảnh hưởng xấu trong xã hội; tán phát bài viết, hồi ký không đúng sự thật.
4- Tổ chức, xúi giục, tham gia các hoạt động bè phái, chia rẽ, cục bộ gây mất đoàn kết nội bộ. Lợi dụng việc phát ngôn, nhân danh việc phản ánh, góp ý kiến đối với Đảng để đả kích, vu cáo, xúc phạm, nhận xét, đánh giá tuỳ tiện đối với người khác. Đe doạ, trù dập, trả thù người tố cáo, phê bình, góp ý.
5- Tố cáo mang tính bịa đặt; viết đơn tố cáo giấu tên, mạo tên. Cùng người khác tham gia viết, ký tên trong một đơn tố cáo. Tổ chức, tham gia kích động, xúi giục, mua chuộc, cưỡng ép người khác khiếu nại, tố cáo.
Cố ý gửi hoặc tán phát đơn khiếu nại, tố cáo đến những nơi không có thẩm quyền giải quyết.
6- Tổ chức, tham gia các hội trái quy định của pháp luật; biểu tình, tập trung đông người gây mất an ninh, trật tự.
7- Đảng viên (kể cả cấp uỷ viên và đảng viên là cán bộ diện cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ quản lý) tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội (theo quy định phải do tổ chức đảng giới thiệu) khi chưa được tổ chức đảng có thẩm quyền cho phép.
8- Quan liêu, thiếu trách nhiệm, bao che, báo cáo sai sự thật, lạm quyền, nhũng nhiễu khi thực hiện nhiệm vụ.
Thiếu trách nhiệm để cơ quan, đơn vị, địa phương do mình trực tiếp phụ trách xảy ra tình trạng mất đoàn kết, tham nhũng, buôn lậu, lãng phí, thất thoát tài sản và các tiêu cực khác.
Có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị, em ruột thực hiện các dự án, kinh doanh các ngành nghề thuộc lĩnh vực hoặc đơn vị do mình trực tiếp phụ trách trái quy định.
Biết mà không báo cáo, phản ảnh, xử lý các hành vi tham nhũng; không thực hiện các quy định về bảo vệ người chống tham nhũng.
9- Làm trái quy định trong những việc : quản lý nhà, đất, tài sản, vốn, tài chính của Đảng và Nhà nước; huy động vốn và cho vay vốn tín dụng; thẩm định, phê duyệt, đấu thầu dự án; thực hiện chính sách an sinh xã hội, cứu trợ, cứu nạn; công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, các quy định trong hoạt động tố tụng.
10- Can thiệp, tác động đến tổ chức, cá nhân để bản thân hoặc người khác được bổ nhiệm, đề cử, ứng cử, đi học, đi nước ngoài trái quy định.
Lợi dụng chức vụ được giao để chiếm dụng, vay, mượn tiền, tài sản của đối tượng trực tiếp quản lý trái quy định.
Ép buộc, mua chuộc cá nhân hoặc tổ chức để bao che, giảm tội cho người khác.
11- Chủ trì, tham mưu, đề xuất, tham gia ban hành các văn bản trái quy định. Tạo điều kiện hoặc có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị, em ruột lợi dụng chức vụ, vị trí công tác của mình nhằm trục lợi.
12- Đưa, nhận, môi giới hối lộ; môi giới làm thủ tục hành chính hoặc lợi dụng vị trí công tác để môi giới hưởng thù lao dưới mọi hình thức trái quy định. Đưa, nhận hoa hồng hoặc môi giới đưa, nhận hoa hồng trái quy định.
13 – Báo cáo, lập hồ sơ, kê khai lý lịch, lịch sử bản thân không trung thực; kê khai tài sản, thu nhập không đúng quy định; mở tài khoản ở nước ngoài trái quy định; tham gia hoạt động rửa tiền.
14 – Tổ chức du lịch, tặng quà, giải trí để lợi dụng người có trách nhiệm dẫn đến việc ban hành quyết định sai, có lợi riêng cho bản thân hoặc tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp mà mình tham gia.
15- Dùng công quỹ để thăm viếng, tiếp khách, tặng quà, xây dựng công trình, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc, đi lại, thông tin liên lạc vượt quá tiêu chuẩn, định mức hoặc trái quy định.
Chiếm giữ, cho thuê, cho mượn tài sản, cho vay quỹ của Nhà nước, cơ quan, đơn vị, tổ chức được giao quản lý, sử dụng trái quy định.
16- Tự mình hoặc có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị, em ruột đi du lịch, tham quan, học tập, chữa bệnh ở trong nước hoặc ngoài nước bằng nguồn tài trợ của tổ chức trong nước hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền.
17- Tổ chức, tham gia đánh bạc dưới mọi hình thức; cho vay trái quy định của pháp luật; sử dụng các chất ma tuý; uống rượu, bia đến mức bê tha và các tệ nạn xã hội khác.
Vi phạm đạo đức nghề nghiệp; có hành vi bạo lực trong gia đình, vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, sống chung với người khác như vợ chồng; bản thân hoặc để con kết hôn với người nước ngoài trái quy định.
18- Mê tín, hoạt động mê tín (đốt đồ mã, hành nghề đồng cốt, thầy cúng, thầy bói). Lập đền, miếu, nơi thờ tự của các tôn giáo trái phép; ủng hộ hoặc tham gia tôn giáo bất hợp pháp; tham gia các tổ chức do tôn giáo lập ra chưa được cấp có thẩm quyền cho phép. Lợi dụng tín ngưỡng để trục lợi.
19- Tổ chức việc cưới, việc tang, các ngày lễ, tết, sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới; mừng thọ, mừng nhà mới, lên chức, lên cấp, chuyển công tác xa hoa, lãng phí hoặc nhằm trục lợi.
II- Tổ chức thực hiện và xử lý vi phạm
1- Giao Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn thực hiện Quy định này và giúp Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
Các cấp uỷ đảng có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Quy định và định kỳ hằng năm báo cáo với cấp uỷ cấp trên tình hình thực hiện Quy định qua uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ cấp trên.
Trong quá trình thực hiện có vấn đề thấy cần bổ sung, sửa đổi thì báo cáo Ban Chấp hành Trung ương xem xét, quyết định.
2- Đảng viên vi phạm Quy định này phải được xử lý công minh, chính xác, kịp thời theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
3- Quy định này thay thế Quy định số 115-QĐ/TW, ngày 07-12-2007 của Bộ Chính trị (khóa X) về những điều đảng viên không được làm, có hiệu lực từ ngày ký và phổ biến đến chi bộ để thực hiện./.
 

ĐIỀU LỆ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Nhân dân - 26 tháng trước
(ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI THÔNG QUA NGÀY 19 THÁNG 1 NĂM 2011)
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Chương I ĐẢNG VIÊN
Điều 1:
1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.
2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.
Điều 2:
Đảng viên có nhiệm vụ:
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Điều 3:
Đảng viên có quyền:
1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.
2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.
4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.
Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Điều 4:
Thủ tục kết nạp đảng viên (kể cả kết nạp lại):
1. Người vào Đảng phải:
- Có đơn tự nguyện xin vào Đảng;
- Báo cáo trung thực lý lịch với chi bộ;
- Được hai đảng viên chính thức giới thiệu.
Nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng trong độ tuổi thanh niên phải là đoàn viên, được ban chấp hành đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu.
Ở các cơ quan, doanh nghiệp nơi không có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng phải là đoàn viên công đoàn, được ban chấp hành công đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu.
2. Người giới thiệu phải:
- Là đảng viên chính thức và cùng công tác với người vào Đảng ít nhất một năm;
- Báo cáo với chi bộ về lý lịch, phẩm chất, năng lực của người vào Đảng và chịu trách nhiệm về sự giới thiệu của mình. Có điều gì chưa rõ thì báo cáo để chi bộ và cấp trên xem xét.
3. Trách nhiệm của chi bộ và cấp ủy:
- Trước khi chi bộ xét và đề nghị kết nạp, chi ủy kiểm tra lại điều kiện của người vào Đảng và lấy ý kiến nhận xét của tổ chức đoàn thể nơi người đó sinh hoạt.
Vấn đề lịch sử chính trị của người vào Đảng phải thực hiện theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
- Chi bộ xét và đề nghị kết nạp từng người một, khi được ít nhất hai phần ba số đảng viên chính thức trong chi bộ tán thành thì đề nghị lên cấp ủy cấp trên; khi có quyết định của cấp ủy cấp trên, chi bộ tổ chức lễ kết nạp từng người một.
- Đảng ủy cơ sở xét, nếu được ít nhất hai phần ba số cấp ủy viên tán thành kết nạp thì đề nghị lên cấp ủy cấp trên trực tiếp.
- Ban thường vụ cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng hoặc cấp ủy cơ sở được ủy quyền xét, quyết định kết nạp từng người một.
4. Nơi chưa có đảng viên hoặc có đảng viên nhưng chưa đủ điều kiện giới thiệu thì cấp ủy cấp trên trực tiếp cử đảng viên về làm công tác tuyên truyền, xem xét, giới thiệu kết nạp vào Đảng. Trường hợp đặc biệt do Ban Chấp hành Trung ương quy định.
Điều 5:
1. Người được kết nạp vào Đảng phải trải qua thời kỳ dự bị mười hai tháng, tính từ ngày chi bộ tổ chức lễ kết nạp. Trong thời kỳ dự bị, chi bộ tiếp tục giáo dục, rèn luyện và phân công đảng viên chính thức giúp đảng viên đó tiến bộ.
2. Khi hết thời kỳ dự bị, chi bộ xét công nhận đảng viên chính thức từng người một và biểu quyết như khi xét kết nạp; nếu không đủ tư cách đảng viên thì đề nghị lên cấp ủy có thẩm quyền quyết định xóa tên trong danh sách đảng viên dự bị.
3. Nghị quyết của chi bộ về đề nghị công nhận đảng viên chính thức phải được cấp ủy có thẩm quyền quyết định.
4. Đảng viên đã được công nhận chính thức thì tuổi đảng của đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định kết nạp.
Điều 6:
Việc phát và quản lý thẻ đảng viên, quản lý hồ sơ đảng viên và thủ tục chuyển sinh hoạt đảng do Ban Chấp hành Trung ương quy định.
Điều 7:
Đảng viên tuổi cao, sức yếu, tự nguyện xin giảm, miễn công tác và sinh hoạt đảng do chi bộ xem xét, quyết định.
Điều 8:
1. Đảng viên bỏ sinh hoạt chi bộ hoặc không đóng đảng phí ba tháng trong năm mà không có lý do chính đáng; đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, không làm nhiệm vụ đảng viên, đã được chi bộ giáo dục mà không tiến bộ thì chi bộ xem xét, đề nghị lên cấp có thẩm quyền xóa tên trong danh sách đảng viên.
2. Các trường hợp trên nếu đảng viên có khiếu nại thì chi bộ báo cáo cấp ủy có thẩm quyền xem xét.
3. Đảng viên xin ra khỏi Đảng do chi bộ xem xét, đề nghị cấp có thẩm quyền chuẩn y kết nạp quyết định.
Chương II NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA ĐẢNG
Điều 9:
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
3. Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Điều 10:
1. Hệ thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước.
2. Tổ chức cơ sở đảng được lập tại đơn vị cơ sở hành chính, sự nghiệp, kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam theo quy định tại Chương VI. Việc lập tổ chức đảng ở những nơi có đặc điểm riêng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định lập hoặc giải thể đảng bộ, chi bộ trực thuộc.
Điều 11:
1. Cấp ủy triệu tập đại hội khi hết nhiệm kỳ, thông báo trước cho cấp dưới về thời gian và nội dung đại hội.
2. Cấp ủy triệu tập đại hội quyết định số lượng đại biểu và phân bổ cho các đảng bộ trực thuộc căn cứ vào số lượng đảng viên, số lượng đảng bộ trực thuộc, vị trí quan trọng của từng đảng bộ, theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Đại biểu dự đại hội gồm các ủy viên ban chấp hành cấp triệu tập đại hội và đại biểu do đại hội cấp dưới bầu.
4. Việc chỉ định đại biểu chỉ thực hiện đối với tổ chức đảng hoạt động trong điều kiện đặc biệt không thể mở đại hội để bầu cử được, theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
5. Đại biểu dự đại hội phải được đại hội thẩm tra tư cách và biểu quyết công nhận. Cấp ủy triệu tập đại hội không được bác bỏ tư cách đại biểu do đại hội cấp dưới bầu, trừ trường hợp đại biểu đang bị đình chỉ sinh hoạt đảng, đình chỉ sinh hoạt cấp ủy, bị khởi tố, truy tố, tạm giam.
6. Đại hội chỉ hợp lệ khi có ít nhất hai phần ba số đại biểu hoặc đảng viên được triệu tập tham dự và có ít nhất hai phần ba số tổ chức đảng trực thuộc có đại biểu tham dự.
7. Đại hội bầu đoàn chủ tịch (chủ tịch) để điều hành công việc của đại hội.
Điều 12:
1. Cấp ủy viên phải có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh; chấp hành nghiêm chỉnh nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có kiến thức và năng lực tham gia lãnh đạo tập thể, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; đoàn kết cán bộ, đảng viên, được quần chúng tín nhiệm.
2. Số lượng Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương do Đại hội đại biểu toàn quốc quyết định; số lượng cấp ủy viên cấp nào do đại hội cấp đó quyết định, theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương. Cấp ủy các cấp cần được đổi mới, bảo đảm tính kế thừa và phát triển qua mỗi lần đại hội.
3. Đoàn chủ tịch (chủ tịch) hướng dẫn bầu cử:
- Đại biểu có quyền nhận xét, chất vấn về người ứng cử và người được đề cử.
- Danh sách bầu cử do đại hội thảo luận và biểu quyết thông qua.
- Bầu cử bằng phiếu kín.
- Người trúng cử phải được số phiếu bầu quá một nửa so với tổng số đại biểu được triệu tập hoặc so với tổng số đảng viên chính thức của đảng bộ, chi bộ được triệu tập.
Trường hợp số người có số phiếu quá một nửa nhiều hơn số lượng cần bầu thì lấy số người có số phiếu cao hơn; nếu ở cuối danh sách trúng cử có nhiều người ngang phiếu nhau và nhiều hơn số lượng cần bầu thì bầu lại số người ngang phiếu đó để lấy người có số phiếu cao hơn, không cần phải quá một nửa. Trường hợp bầu lại mà số phiếu vẫn ngang nhau, có bầu nữa hay không do đại hội quyết định.
Nếu bầu một lần mà chưa đủ số lượng quy định, có bầu thêm nữa hay không do đại hội quyết định.
Điều 13:
1. Cấp ủy khóa mới nhận sự bàn giao từ cấp ủy khóa trước, điều hành công việc ngay sau khi được bầu và được công nhận chính thức khi có quyết định chuẩn y của cấp ủy cấp trên trực tiếp.
2. Việc bổ sung cấp ủy viên thiếu do cấp ủy đề nghị, cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định; số lượng cấp ủy viên sau khi bổ sung không vượt quá tổng số cấp ủy viên mà đại hội đã quyết định. Khi thật cần thiết, cấp ủy cấp trên trực tiếp chỉ định tăng thêm một số cấp ủy viên cấp dưới.
3. Khi thật cần thiết, cấp ủy cấp trên có quyền điều động một số cấp ủy viên cấp dưới, nhưng không quá một phần ba tổng số cấp ủy viên do đại hội đã bầu.
4. Cấp ủy viên xin rút khỏi cấp ủy, do cấp ủy xem xét đề nghị lên cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định; đối với Ủy viên Trung ương, do Ban Chấp hành Trung ương quyết định. Cấp ủy viên đương nhiệm ở đảng bộ từ cấp tỉnh trở xuống, khi có quyết định nghỉ công tác để nghỉ hưu hoặc chuyển công tác đến đơn vị khác ngoài đảng bộ thì thôi tham gia các cấp ủy đương nhiệm ở đảng bộ đó.
Đối với Ủy viên Trung ương khi có quyết định thôi giữ chức vụ trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể để nghỉ hưu thì thôi tham gia Ban Chấp hành Trung ương đương nhiệm.
5. Từ tổ chức cơ sở đảng đến đảng bộ trực thuộc Trung ương nếu được thành lập mới, chia tách, hợp nhất, sáp nhập trong nhiệm kỳ, thì cấp ủy cấp trên trực tiếp chỉ định cấp ủy chính thức; chỉ đạo xây dựng hoặc bổ sung nhiệm vụ cho phù hợp; nhiệm kỳ đầu tiên của các cấp ủy này không nhất thiết là 5 năm để nhiệm kỳ đại hội phù hợp với nhiệm kỳ đại hội của tổ chức đảng cấp trên.
6. Đối với tổ chức đảng không thể mở đại hội được, cấp ủy cấp trên trực tiếp chỉ định cấp ủy của tổ chức đảng đó.
Điều 14:
1. Cấp ủy mỗi cấp lập các cơ quan tham mưu, giúp việc theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương.
2. Khi cần, cấp ủy lập tiểu ban, hội đồng, tổ công tác và giải thể khi hoàn thành nhiệm vụ.
Chương III CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG Ở CẤP TRUNG ƯƠNG
Điều 15:
1. Đại hội đại biểu toàn quốc do Ban Chấp hành Trung ương triệu tập thường lệ năm năm một lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá một năm.
2. Đại hội đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết của nhiệm kỳ vừa qua; quyết định đường lối, chính sách của Đảng nhiệm kỳ tới; bổ sung, sửa đổi Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng khi cần; bầu Ban Chấp hành Trung ương. Số lượng Ủy viên Trung ương chính thức và Ủy viên Trung ương dự khuyết do Đại hội quyết định.
Ban Chấp hành Trung ương xem xét việc chuyển Ủy viên Trung ương dự khuyết có đủ điều kiện để thay thế Ủy viên Trung ương chính thức khi khuyết.
3. Khi Ban Chấp hành Trung ương xét thấy cần hoặc khi có hơn một nửa số cấp ủy trực thuộc yêu cầu thì Ban Chấp hành Trung ương triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc bất thường. Đại biểu dự Đại hội bất thường là các Ủy viên Trung ương đương nhiệm, đại biểu đã dự Đại hội đại biểu toàn quốc đầu nhiệm kỳ, đủ tư cách.
Điều 16:
1. Ban Chấp hành Trung ương tổ chức chỉ đạo thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đại hội; quyết định những chủ trương, chính sách về đối nội, đối ngoại, công tác quần chúng và công tác xây dựng Đảng; chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng nhiệm kỳ tiếp theo, Đại hội đại biểu toàn quốc bất thường (nếu có).
2. Ban Chấp hành Trung ương căn cứ tình hình thực tế quyết định chỉ đạo thí điểm một số chủ trương mới.
3. Ban Chấp hành Trung ương họp thường lệ sáu tháng một lần; họp bất thường khi cần.
Điều 17:
1. Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị; bầu Tổng Bí thư trong số Ủy viên Bộ Chính trị; thành lập Ban Bí thư gồm Tổng Bí thư, một số Ủy viên Bộ Chính trị do Bộ Chính trị phân công và một số Ủy viên Ban Bí thư do Ban Chấp hành Trung ương bầu trong số Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; bầu Ủy ban Kiểm tra Trung ương; bầu Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương trong số Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
Số lượng Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư và Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương do Ban Chấp hành Trung ương quyết định.
Đồng chí Tổng Bí thư giữ chức vụ Tổng Bí thư không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp.
2. Bộ Chính trị lãnh đạo và kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương; quyết định những vấn đề về chủ trương, chính sách, tổ chức, cán bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương; báo cáo công việc đã làm trước hội nghị Ban Chấp hành Trung ương hoặc theo yêu cầu của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Ban Bí thư lãnh đạo công việc hằng ngày của Đảng: chỉ đạo công tác xây dựng Đảng và công tác quần chúng; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; chỉ đạo sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị; quyết định một số vấn đề về tổ chức, cán bộ và một số vấn đề khác theo sự phân công của Ban Chấp hành Trung ương; chỉ đạo hoặc kiểm tra việc chuẩn bị các vấn đề đưa ra Bộ Chính trị thảo luận và quyết định.
Chương IV CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG Ở CÁC CẤP ĐỊA PHƯƠNG
Điều 18:
1. Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh do cấp ủy cùng cấp triệu tập thường lệ năm năm một lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá một năm.
2. Đại hội thảo luận văn kiện của cấp ủy cấp trên; đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết nhiệm kỳ vừa qua; quyết định nhiệm vụ nhiệm kỳ tới; bầu cấp ủy; bầu đại biểu đi dự đại hội cấp trên.
3. Khi cấp ủy xét thấy cần hoặc khi có trên một nửa số cấp ủy trực thuộc yêu cầu và được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý thì triệu tập đại hội đại biểu bất thường.
Đại biểu dự đại hội đại biểu bất thường là các cấp ủy viên đương nhiệm, đại biểu đã dự đại hội đại biểu đảng bộ đầu nhiệm kỳ, đang sinh hoạt tại đảng bộ, đủ tư cách.
Điều 19:
1. Cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh ủy, thành ủy), cấp ủy huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi tắt là huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy) lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu; nghị quyết, chỉ thị của cấp trên.
2. Hội nghị tỉnh ủy, thành ủy, huyện ủy, quận ủy, thị ủy do ban thường vụ triệu tập thường lệ ba tháng một lần; họp bất thường khi cần.
Điều 20:
1. Hội nghị tỉnh ủy, thành ủy, huyện ủy, quận ủy, thị ủy bầu ban thường vụ; bầu bí thư và phó bí thư trong số ủy viên thường vụ; bầu ủy ban kiểm tra; bầu chủ nhiệm ủy ban kiểm tra trong số ủy viên ủy ban kiểm tra.
2. Số lượng ủy viên ban thường vụ và ủy viên ủy ban kiểm tra do cấp ủy quyết định theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Ban thường vụ lãnh đạo và kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết của đại hội đại biểu, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cùng cấp và cấp trên; quyết định những vấn đề về chủ trương, tổ chức, cán bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của cấp ủy.
4. Thường trực cấp ủy gồm bí thư, các phó bí thư, chỉ đạo kiểm tra thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy, của ban thường vụ và cấp ủy cấp trên; giải quyết công việc hằng ngày của đảng bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của ban thường vụ.
Chương V TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
Điều 21:
1. Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
2. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp ủy cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở); cấp ủy cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.
3. Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ đảng trực thuộc.
4. Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng ủy.
5. Những trường hợp sau đây, cấp ủy cấp dưới phải báo cáo và được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện:
- Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.
- Lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở có hơn ba mươi đảng viên.
- Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở.
Điều 22:
1. Đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên của tổ chức cơ sở đảng do cấp ủy cơ sở triệu tập năm năm một lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn nhưng không quá một năm.
2. Đại hội thảo luận văn kiện của cấp trên; đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết nhiệm kỳ vừa qua; quyết định nhiệm vụ nhiệm kỳ tới; bầu cấp ủy; bầu đại biểu đi dự đại hội đảng bộ cấp trên.
3. Khi cấp ủy xét thấy cần hoặc khi có trên một nửa số tổ chức đảng trực thuộc yêu cầu và được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý thì triệu tập đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên bất thường.
Đại biểu dự đại hội đại biểu bất thường là các cấp ủy viên đương nhiệm, đại biểu đã dự đại hội đại biểu đảng bộ đầu nhiệm kỳ, đang sinh hoạt tại đảng bộ, đủ tư cách. Dự đại hội đảng viên bất thường là những đảng viên của đảng bộ đó.
4. Đảng ủy, chi ủy cơ sở họp thường lệ mỗi tháng một lần; họp bất thường khi cần.
5. Đảng ủy cơ sở có từ chín ủy viên trở lên bầu ban thường vụ; bầu bí thư, phó bí thư trong số ủy viên thường vụ; dưới chín ủy viên chỉ bầu bí thư, phó bí thư.
6. Đảng bộ cơ sở họp thường lệ mỗi năm hai lần; họp bất thường khi cần. Chi bộ cơ sở họp thường lệ mỗi tháng một lần; họp bất thường khi cần.
Điều 23:
Tổ chức cơ sở đảng có nhiệm vụ:
1. Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.
2. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
3. Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
4. Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
5. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Đảng ủy cơ sở nếu được cấp ủy cấp trên trực tiếp ủy quyền thì được quyết định kết nạp và khai trừ đảng viên.
Điều 24:
1. Chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở được tổ chức theo nơi làm việc hoặc nơi ở của đảng viên; mỗi chi bộ ít nhất có 3 đảng viên chính thức. Chi bộ đông đảng viên có thể chia thành nhiều tổ đảng; tổ đảng bầu tổ trưởng, nếu cần thì bầu tổ phó; tổ đảng hoạt động dưới sự chỉ đạo của chi ủy.
2. Chi bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị; giáo dục, quản lý và phân công công tác cho đảng viên; làm công tác vận động quần chúng và công tác phát triển đảng viên; kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật đảng viên; thu, nộp đảng phí. Chi bộ, chi ủy họp thường lệ mỗi tháng một lần.
3. Đại hội chi bộ do chi ủy triệu tập năm năm hai lần; nơi chưa có chi ủy thì do bí thư chi bộ triệu tập. Khi được đảng ủy cơ sở đồng ý có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá sáu tháng.
4. Chi bộ có dưới chín đảng viên chính thức, bầu bí thư chi bộ; nếu cần, bầu phó bí thư. Chi bộ có chín đảng viên chính thức trở lên, bầu chi ủy, bầu bí thư và phó bí thư chi bộ trong số chi ủy viên.
Chương VI TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM
Điều 25.
1. Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; sự lãnh đạo của Đảng được tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Đảng quyết định những vấn đề cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tham gia xây dựng đất nước. Nhà nước thống nhất quản lý đối với Quân đội, Công an và sự nghiệp quốc phòng, an ninh theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
2. Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam hoạt động theo Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
3. Các ban của cấp ủy đảng theo chức năng giúp cấp ủy hướng dẫn, kiểm tra, giám sát công tác xây dựng Đảng và công tác quần chúng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam.
Điều 26:
1. Quân ủy Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định, gồm một số Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương công tác trong Quân đội và một số Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương công tác ngoài Quân đội, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đồng chí Tổng Bí thư là Bí thư Quân ủy Trung ương.
2. Quân ủy Trung ương nghiên cứu đề xuất để Ban Chấp hành Trung ương quyết định những vấn đề về đường lối, nhiệm vụ quân sự và quốc phòng; lãnh đạo mọi mặt trong Quân đội.
3. Tổng cục Chính trị đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị trong toàn quân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban Bí thư và trực tiếp, thường xuyên của Quân ủy Trung ương. Ở mỗi cấp có cơ quan chính trị và cán bộ chính trị đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan chính trị cấp trên.
Điều 27:
1. Cấp ủy đảng trong bộ đội chủ lực và bộ đội biên phòng ở cấp nào do đại hội cấp đó bầu, lãnh đạo các đơn vị thuộc cấp mình về mọi mặt; trường hợp đặc biệt do cấp ủy cấp trên chỉ định.
2. Đảng ủy quân khu gồm các đồng chí công tác trong đảng bộ quân khu do đại hội cùng cấp bầu và các đồng chí bí thư tỉnh ủy, thành ủy trên địa bàn quân khu được chỉ định tham gia; lãnh đạo thực hiện nghị quyết của cấp trên, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; phối hợp với cấp ủy địa phương thực hiện đường lối, chính sách của Đảng trong quân khu.
3. Tổ chức đảng quân sự địa phương ở cấp nào đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy địa phương cấp đó về mọi mặt, đồng thời chấp hành nghị quyết của đảng ủy quân sự cấp trên về nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và công tác quân sự địa phương. Cơ quan chính trị cấp trên phối hợp với cấp ủy địa phương chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị và công tác quần chúng trong lực lượng vũ trang địa phương.
4. Đảng ủy quân sự tỉnh, thành, huyện, quận, thị xã gồm các đồng chí công tác trong đảng bộ quân sự địa phương do đại hội cùng cấp bầu, đồng chí bí thư cấp ủy địa phương và một số đồng chí ngoài đảng bộ quân sự địa phương được cấp ủy địa phương chỉ định tham gia. Đồng chí bí thư cấp ủy địa phương trực tiếp làm bí thư đảng ủy quân sự cùng cấp.
Điều 28:
1. Đảng ủy Công an Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định gồm một số Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương công tác trong Công an nhân dân và một số Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương công tác ngoài Công an nhân dân, một số đồng chí công tác thuộc Đảng bộ Công an Trung ương, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đảng ủy Công an Trung ương nghiên cứu đề xuất để Ban Chấp hành Trung ương quyết định những vấn đề về đường lối, chính sách, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; lãnh đạo mọi mặt công tác trong công an.
2. Cấp ủy công an cấp nào do đại hội cấp đó bầu, trường hợp thật cần thiết do cấp ủy cấp trên chỉ định. Cấp ủy lãnh đạo các đơn vị thuộc cấp mình về mọi mặt.
3. Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị và công tác quần chúng trong các đơn vị thuộc đảng bộ công an, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Công an Trung ương; phối hợp với cấp ủy địa phương chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị và công tác quần chúng trong lực lượng công an địa phương.
4. Cơ quan xây dựng lực lượng công an mỗi cấp đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị, công tác quần chúng trong đảng bộ, hoạt động dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan xây dựng lực lượng cấp trên.
Điều 29:
1. Tổ chức đảng công an nhân dân địa phương cấp nào đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của cấp ủy cấp đó, đồng thời chấp hành nghị quyết của đảng ủy công an cấp trên về giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; lãnh đạo xây dựng lực lượng công an nhân dân ở địa phương và xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh.
2. Đảng ủy công an tỉnh, thành, huyện, quận, thị xã do đại hội đảng bộ cùng cấp bầu.
Chương VII CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG VÀ ỦY BAN KIỂM TRA CÁC CẤP
Điều 30:
1. Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng.
2. Các cấp ủy đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Điều 31:
1. Ủy ban kiểm tra các cấp do cấp ủy cùng cấp bầu, gồm một số đồng chí trong cấp ủy và một số đồng chí ngoài cấp ủy.
2. Các thành viên ủy ban kiểm tra và chủ nhiệm, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp dưới phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp chuẩn y, nếu điều động chủ nhiệm ủy ban kiểm tra sang công tác khác phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý.
3. Ủy ban kiểm tra làm việc theo chế độ tập thể, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy cùng cấp và sự chỉ đạo, kiểm tra của ủy ban kiểm tra cấp trên.
Điều 32:
Ủy ban kiểm tra các cấp có nhiệm vụ:
1. Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
2. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.
3. Giám sát cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý và tổ chức đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết của cấp ủy và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
4. Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề nghị cấp ủy thi hành kỷ luật.
5. Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu nại về kỷ luật Đảng.
6. Kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp.
Điều 33:
Ủy ban kiểm tra có quyền yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên báo cáo, cung cấp tài liệu về những vấn đề liên quan đến nội dung kiểm tra.
Chương VIII KHEN THƯỞNG VÀ KỶ LUẬT
Điều 34:
Tổ chức đảng và đảng viên có thành tích được khen thưởng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Điều 35:
1. Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm kỷ luật phải xử lý công minh, chính xác, kịp thời.
2. Hình thức kỷ luật:
- Đối với tổ chức đảng: khiển trách, cảnh cáo, giải tán;
- Đối với đảng viên chính thức: khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ;
- Đối với đảng viên dự bị: khiển trách, cảnh cáo.
Điều 36:
Thẩm quyền thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm:
1. Chi bộ quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong chi bộ (kể cả cấp ủy viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý) vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên (trừ nhiệm vụ do cấp trên giao).
Đảng ủy cơ sở quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong đảng bộ, cách chức cấp ủy viên cấp dưới.
Đảng ủy cơ sở được ủy quyền quyết định kết nạp đảng viên thì có quyền quyết định khai trừ đảng viên, nhưng không phải là cấp ủy viên cùng cấp và đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý.
2. Cấp ủy tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp ủy viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp ủy viên cùng cấp vi phạm nhiệm vụ do cấp ủy giao.
Ban thường vụ cấp ủy quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp ủy viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên, cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý vi phạm nhiệm vụ chuyên môn được giao.
3. Ban Chấp hành Trung ương quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể cả Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; khiển trách, cảnh cáo Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
4. Ủy ban kiểm tra từ cấp huyện, quận và tương đương trở lên quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, nhưng không phải là cấp ủy viên cùng cấp; quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý và cấp ủy viên cấp dưới trực tiếp.
5. Cấp ủy và ủy ban kiểm tra cấp trên có quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xóa bỏ hình thức kỷ luật do cấp dưới quyết định.
6. Đảng viên giữ nhiều chức vụ bị kỷ luật cách chức thì tùy mức độ, tính chất vi phạm mà cách một hay nhiều chức vụ.
Điều 37:
Thẩm quyền thi hành kỷ luật tổ chức đảng vi phạm:
1. Cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định khiển trách, cảnh cáo tổ chức đảng cấp dưới.
2. Kỷ luật giải tán một tổ chức đảng do cấp ủy cấp trên trực tiếp đề nghị, cấp ủy cấp trên cách một cấp quyết định. Quyết định này phải báo cáo lên cấp ủy cấp trên trực tiếp và Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
3. Chỉ giải tán một tổ chức đảng khi tổ chức đó phạm một trong các trường hợp: có hành động chống đường lối, chính sách của Đảng; vi phạm đặc biệt nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng hoặc pháp luật của Nhà nước.
Điều 38:
1. Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm không thuộc thẩm quyền quyết định kỷ luật của cấp mình thì đề nghị lên cấp có thẩm quyền quyết định.
2. Trường hợp tổ chức đảng cấp dưới không xử lý hoặc xử lý không đúng mức đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm thì cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra cấp trên quyết định các hình thức kỷ luật theo thẩm quyền, đồng thời xem xét trách nhiệm của tổ chức đảng đó.
3. Kỷ luật giải tán một tổ chức đảng và khai trừ đảng viên phải được ít nhất hai phần ba số thành viên của tổ chức đảng cấp dưới đề nghị và do tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định.
Điều 39:
1. Đảng viên vi phạm phải kiểm điểm trước chi bộ, tự nhận hình thức kỷ luật; nếu từ chối kiểm điểm hoặc bị tạm giam, tổ chức đảng vẫn tiến hành xem xét kỷ luật. Trường hợp cần thiết, cấp ủy và ủy ban kiểm tra cấp có thẩm quyền trực tiếp xem xét kỷ luật.
2. Tổ chức đảng vi phạm phải kiểm điểm, tự nhận hình thức kỷ luật và báo cáo lên cấp ủy cấp trên quyết định.
3. Trước khi quyết định kỷ luật, đại diện tổ chức đảng có thẩm quyền nghe đảng viên vi phạm hoặc đại diện tổ chức đảng vi phạm trình bày ý kiến.
4. Quyết định của cấp dưới về kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm phải báo cáo lên cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp trên trực tiếp; nếu đảng viên vi phạm tham gia nhiều cơ quan lãnh đạo của Đảng thì phải báo cáo đến các cơ quan lãnh đạo cấp trên mà đảng viên đó là thành viên.
5. Quyết định của cấp trên về kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm phải được thông báo đến cấp dưới, nơi có tổ chức đảng và đảng viên vi phạm; trường hợp cần thông báo rộng hơn thì do cấp ủy có thẩm quyền quyết định.
6. Kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm có hiệu lực ngay sau khi công bố quyết định.
7. Tổ chức đảng, đảng viên không đồng ý với quyết định kỷ luật thì trong vòng một tháng, kể từ ngày nhận quyết định, có quyền khiếu nại với cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra cấp trên cho đến Ban Chấp hành Trung ương. Việc giải quyết khiếu nại kỷ luật, thực hiện theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
8. Khi nhận khiếu nại kỷ luật, cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra thông báo cho tổ chức đảng hoặc đảng viên khiếu nại biết; chậm nhất ba tháng đối với cấp tỉnh, thành phố, huyện, quận và tương đương, sáu tháng đối với cấp Trung ương, kể từ ngày nhận được khiếu nại, phải xem xét, giải quyết, trả lời cho tổ chức đảng và đảng viên khiếu nại biết.
9. Trong khi chờ giải quyết khiếu nại tổ chức đảng và đảng viên bị kỷ luật phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết định kỷ luật.
Điều 40:
1. Đảng viên bị hình phạt từ cải tạo không giam giữ trở lên phải khai trừ ra khỏi Đảng.
2. Tổ chức đảng bị kỷ luật giải tán, cấp ủy cấp trên trực tiếp lập tổ chức đảng mới hoặc giới thiệu sinh hoạt đảng cho số đảng viên còn lại.
3. Đảng viên bị kỷ luật cách chức, trong vòng một năm, kể từ ngày có quyết định, không được bầu vào cấp ủy, không được bổ nhiệm vào các chức vụ tương đương và cao hơn.
4. Việc đình chỉ sinh hoạt đảng của đảng viên, đình chỉ sinh hoạt cấp ủy của cấp ủy viên, đình chỉ hoạt động của tổ chức đảng phải được cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra có thẩm quyền quyết định theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Chương IX ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
Điều 41:
1. Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội bằng Cương lĩnh chính trị, chiến lược, chính sách, chủ trương; bằng công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
2. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
3. Đảng giới thiệu cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội.
4. Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, chỉ thị của Đảng; tổ chức đảng lãnh đạo việc cụ thể hóa thành các văn bản luật pháp của Nhà nước, chủ trương của đoàn thể; lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.
Điều 42:
1. Trong cơ quan lãnh đạo của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, do bầu cử lập ra, cấp ủy cùng cấp lập đảng đoàn gồm một số đảng viên công tác trong tổ chức đó. Nơi không lập đảng đoàn thì tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan đó thực hiện chức năng lãnh đạo theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
2. Đảng đoàn do cấp ủy cùng cấp chỉ định; có bí thư, nếu cần, có phó bí thư. Đảng đoàn làm việc theo chế độ tập thể và chịu trách nhiệm trước cấp ủy.
3. Đảng đoàn lãnh đạo, thuyết phục các thành viên trong tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; liên hệ mật thiết với nhân dân; đề xuất với cấp ủy về phương hướng, nhiệm vụ, tổ chức, cán bộ và quyết định theo thẩm quyền; lãnh đạo công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng.
4. Khi cần, đảng đoàn triệu tập các đảng viên trong tổ chức để thảo luận chủ trương của cấp ủy và bàn biện pháp thực hiện.
Điều 43:
1. Trong cơ quan hành pháp, tư pháp cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cấp ủy cùng cấp lập ban cán sự đảng gồm một số đảng viên công tác trong tổ chức đó. Nơi không lập ban cán sự đảng thì tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan đó thực hiện chức năng lãnh đạo theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
2. Ban cán sự đảng do cấp ủy cùng cấp chỉ định; có bí thư, nếu cần, có phó bí thư. Ban cán sự đảng làm việc theo chế độ tập thể và chịu trách nhiệm trước cấp ủy.
3. Ban cán sự đảng lãnh đạo quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; đề xuất với cấp ủy về phương hướng, nhiệm vụ, tổ chức, cán bộ và quyết định theo thẩm quyền; lãnh đạo công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng.
Chương X ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
Điều 44:
1. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt trong phong trào thanh niên; là trường học xã hội chủ nghĩa; đại diện quyền lợi của thanh niên; phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
2. Cấp ủy đảng lãnh đạo trực tiếp tổ chức đoàn cùng cấp về phương hướng, nhiệm vụ, tư tưởng, tổ chức, cán bộ.
Điều 45:
Đảng viên còn trong độ tuổi đoàn phải sinh hoạt và công tác trong tổ chức đoàn.
Chương XI TÀI CHÍNH CỦA ĐẢNG
Điều 46:
1. Tài chính của Đảng gồm đảng phí do đảng viên đóng, từ ngân sách nhà nước và các khoản thu khác.
2. Ban Chấp hành Trung ương quy định thống nhất nguyên tắc, chế độ quản lý tài chính, tài sản của Đảng, mức đóng đảng phí của đảng viên.
3. Hằng năm, cấp ủy nghe báo cáo và quyết định nhiệm vụ tài chính của cấp mình.
Chương XII CHẤP HÀNH ĐIỀU LỆ ĐẢNG
Điều 47:
Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh Điều lệ Đảng.
Điều 48:
Chỉ Đại hội đại biểu toàn quốc mới có quyền sửa đổi Điều lệ Đảng

http://www.baomoi.com/DIEU-LE-DANG-CONG-SAN-VIET-NAM/122/5899007.epi