Tuesday 30 April 2013

Hà Nội cấp sổ đỏ cho người nước ngoài

30 tháng 4, 2013

Thị trường bất động sản Việt Nam
Chính phủ VN đang tìm cách tái khởi động thị trường bất động sản
Hà Nội đang chuẩn bị thí điểm Bấm cấp sổ đỏ, kéo dài thời hạn các giấy phép sử dụng đất và sở hữu nhà ở, bất động sản, tài sản gắn liền trên đất được cấp quyền sử dụng, cho người nước ngoài trên địa bàn thành phố, theo một quyết định mới ra của chính quyền.
Theo quy định mới, từ ngày 4/5/2013, người nước ngoài đáp ứng đầy đủ các điều kiện trong đó có hoàn tất các nghĩa vụ tài chính khi mua bất động sản ở Hà Nội sẽ được trao sổ đỏ hay chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở, tài sản gắn liền với đất được phép sử dụng với thời hạn dài hơn mức giới hạn thí điểm cũ chỉ là 5 năm.
Bình luận về động thái này của Hà Nội, một chuyên gia từ Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam cho BBC hay đây là một nỗ lực của chính quyền nhằm tạo ra chuyển động trên thị trường bất động sản ở địa bàn thủ đô, sau thời gian khá dài thị trường này bị băng giá.
Chuyên gia không muốn tiết lộ danh tính này cho rằng động thái cũng thể hiện kỳ vọng của Hà Nội tạo ra chuyển biến trên thị trường bằng cách hấp dẫn dòng vốn từ nước ngoài vào địa bàn Hà Nội, mà mới đây đã mở rộng diện tích sang một số địa phương như Hà Tây, Vĩnh Phúc...
Nhận định của chuyên gia cho rằng vẫn có thể có khách hàng từ nước ngoài quan tâm tới một số phân đoạn thị trường ở Việt Nam, với điều kiện các phân đoạn có tính khả thi rõ ràng về lợi nhuận trong khi các môi trường về cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính, pháp lý, thuế khóa... được cải thiện, tuy nhiên Bấm con số cụ thể là bao nhiêu còn chưa thể xác định.
"Chúng tôi những người nghiên cứu sâu vấn đề này thì thấy rằng cũng phải một mặt có hỗ trợ hợp lý, nhưng cũng phải để cho nó hạ nhiệt, hạ giá xuống thì mới giải quyết được"
Chuyên gia kinh tế
Ý kiến còn cho rằng động thái của Hà Nội nhắm vào việc đi tiên phong trong cả nước đáp ứng nguyện vọng của một bộ phận kiều dân Việt Nam từ nước ngoài muốn về tham gia kinh doanh, tung vốn trên thị trường, hoặc sở hữu nhà cửa, đất đai và các tài sản gắn với bất động sản với mục đích tiêu dùng, trong dài hạn và ổn định.
Thời hạn thí điểm được áp dụng từ năm 2008 quy định người nước ngoài chỉ được cấp giấy tờ sử dụng đất và sở hữu nhà cửa, tài sản gắn với đất được sử dụng với độ dài 5 năm được cho là bất hợp lý và làm giảm tính hấp dẫn, cũng như độ tin cậy của người mua hoặc nhà đầu tư trong một thị trường có đặc thù đầu tư trung và dài hạn, vẫn theo chuyên gia.

'Để bong bóng hạ nhiệt'

Mặc dù động thái cho thấy mong mỏi đột phá của Hà Nội, ý kiến chuyên gia cho rằng thời điểm hiện nay vẫn rất khó để xốc lại thị trường bất động sản, với Hà Nội là một trong các thị trường chính nhiều năm qua đã bị Bấm đóng băng và gặp các Bấm khó khăn khá nghiêm trọng.
"Còn bong bóng bất động sản thì đành chấp nhận một thời gian để nó hạ nhiệt thôi," chuyên gia nói.
"Chứ còn không thể cứu nó được bây giờ. Đó là kinh nghiệm quốc tế rồi, chứ không phải của riêng Việt Nam.
"Nó tăng lên hàng chục lần, bây giờ thất bát lại đòi cứu trợ nó ngay, thì làm gì mà được. Mà đây rơi vào toàn những đại gia cả"
Ý kiến chuyên gia
"Nhưng nhiều người cứ muốn phải cứu, nhưng cứu thế nào được, ai có thể mách cho Việt Nam có thể cứu được bất động sản ngay bây giờ không?"
"Chúng tôi những người nghiên cứu sâu vấn đề này thì thấy rằng cũng phải một mặt có hỗ trợ hợp lý, nhưng cũng phải để cho nó hạ nhiệt, hạ giá xuống thì mới giải quyết được.
"Nó tăng lên hàng chục lần, bây giờ thất bát lại đòi cứu trợ nó ngay, thì làm gì mà được. Mà đây rơi vào toàn những đại gia cả."

'Vận động không bỏ rơi'

Trong một trao đổi với BBC hồi hạ tuần tháng Tư, chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành cũng khẳng định thị trường bất động sản của Việt Nam nói chung và của Hà Nội nói riêng bao hàm nhiều bất cập.
"Giá bất động sản ở Việt Nam, như ở một số nơi tại Hà Nội và Sài Gòn cao một cách vô lý so với mặt bằng chung quốc tế và kể cả với mặt bằng ở một số thành phố được cho là có giá đất đai cao ở châu Mỹ, châu Âu và châu Á.
Chuyên gia Bùi Kiến Thành
Kinh tế gia Bùi Kiến Thành nói giá bất động sản của Việt Nam lâu nay có mặt bằng cao quá bất hợp lý
"Thị trường này rất thiếu bền vững và có tính chất bong bóng, tuy nhiên không hiểu sao nhiều doanh nghiệp kể cả các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước tập trung vốn vào đây,
"Nhiều khoản hỗ trợ, ưu đãi của chính phủ lẽ ra cần cung cấp cho các doanh nghiệp ở lĩnh vực khác vốn cần hơn, lại tiếp tục đổ vào đây, mà thị trường thì đóng băng do giá cả ở trên trời và nhiều nguyên nhân khác nữa," ông nói và đề nghị nhà nước và các doanh nghiệp xem lại định hướng chính sách hoặc kinh doanh của mình.
Gần đây đã xuất hiện nhiều bàn thảo về giải pháp ứng cứu, giúp giải toải, lưu thông thị trường bất động sản ở Việt Nam.
Trong số đó, xuất hiện ý kiến Bấm một doanh gia nhiều kinh nghiệm đề nghị nhà nước ngưng bơm các khoản cứu trợ, hậu thuẫn từ tài lực tới các ưu tiên được cho là bao cấp, thái quá khác, để thị trường bất động sản tự điều chỉnh, uốn nắn, tái cơ cấu về thực chất nhằm đem lại hiệu quả đích thực cho cả các nhà đầu tư cũng như với nền kinh tế và thị trường.
Tuy nhiên, một số Bấm ý kiến khác lại cho rằng việc để thị trường này "rơi tự do" là bất hợp lý và vận động, yêu cầu nhà nước không "bỏ rơi" mà ưu tiên Bấm tìm cách tháo gỡ, giúp đỡ các nhà đầu tư đang gặp khó khăn, kể cả trong việc giúp họ thoái vốn dưới nhiều hình thức, với các khoản được đề nghị hỗ trợ có thể lên tới nhiều tỷ đôla từ các nguồn ngân sách nhà nước.

*

Cáo trạng vụ án Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha

27-4-13

Danlambao - Như đã đưa tin, hai sinh viên yêu nước Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha sẽ ra tòa vào ngày 16/5/2013 với cáo buộc 'Tuyên truyền chống phá nhà nước' theo theo khoản 1, điểm C, điều 88 BLHS. Mức án áp đặt cho tội danh này từ 3 đến 12 năm tù giam, chưa kể thời gian tù quản chế.

Theo cáo trạng của VKSND Tỉnh Long An được ký bởi ông Nguyễn Tiến Nghiệp, hai sinh viên Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha cùng bị khép vào tội danh "Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Trên thực tế, đây đều là các hoạt động rải truyền đơn ôn hòa, nội dung phản đối độc tài, kêu gọi dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam, phản đối Trung Quốc xâm lược...
Nguyễn Phương Uyên, 21 tuổi, sinh viên trường Đại học Công Nghệ Thực phẩm TP.HCM bị bắt cóc và giam giữ từ tháng 10 năm ngoái với cáo buộc "Tuyên truyền chống phá Nhà nước" theo điều 88 Bộ luật hình sự.
Người cùng bị bắt với Phương Uyên trong vụ án là Đinh Nguyên Kha, 25 tuổi, sinh viên trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An. Hiện nay, Đinh Nguyên Kha bị Cục chính trị 5 'trích xuất', chuyển lên giam giữ tại trại giam B14, Bộ Công an để tiếp tục bị điều tra tội danh mới mang tên 'khủng bố'.
Danlambao xin gửi đến bạn đọc toàn văn bản cáo trạng vụ án:







*
http://danlambaovn.blogspot.com/2013/04/cao-trang-vu-nguyen-phuong-uyen-va-inh.html#.UX-nJEos7XQ

Kết luận sai trái của Bộ Công an đối với Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha

29-4-13

Vũ Đông Hà (Danlambao) - Sau khi dài dòng kể lể, bản cáo trạng 10 trang của Bộ Công An - Tổng Cục An Ninh, Cục Bảo vệ Chính trị 5 kết luận: 
"Hành vi nêu trên của các bị can Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên đã phạm vào tội "tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" theo Điều 88 Bộ Luật hình sự: 
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: 

a. Tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân

b. Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân

c. Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Xin lưu ý đối tượng chính của điều 88 là nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nhân dân. 
Bây giờ, dựa vào nguyên văn bản cáo trạng, "tội" của Phương Uyên và Nguyên Kha là gì? Hành vi nào được Bộ công an nêu ra trong bản cáo trạng là chống lại "chính quyền nhân dân", "nhà nước CHXHCNVN" và "gây hoang mang trong nhân dân"?: 
1. Dán khẩu hiệu "TTYN Long An đấu tranh cho tự do & Nhân quyền" 

2. Dán cờ vàng 3 sọc đỏ; Dán cờ vàng 3 sọc đỏ với dòng chữ "1890-1920: Đại Nam quốc kỳ từ thời vua Thành Thái tới vua Khải Định; 1948-1975: cờ quốc gia Việt Nam. 

3. Tranh hình công an to lớn cầm dùi cui chỉ về phía người dân đang xếp hàng. 
Cả ba hành vi này không vi phạm điều 88
- Đấu tranh cho tự do & Nhân quyền hoàn toàn không đồng nghĩa với Tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân
Ngược lại, nó là quyền hạn của công dân Việt Nam được bảo đảm bởi Điều 19 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mà nhà nước Việt Nam đã ký và cam kết: Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do quan điểm mà không bị xen vào quấy rầy và được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới. 
- Dán cờ vàng 3 sọc với dữ kiện xuất xứ lịch sử không phải là hành vi chống lại nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật pháp Việt Nam không có điều khoản nào ngăn cấm công dân trình bày, quảng bá những dữ kiện lịch sử. 
Tranh hình công an to lớn cầm dùi cui chỉ về phía người dân đang xếp hàng là một hành động phản ảnh tình trạng xã hội. Hiện tượng công an đánh người, giết người cũng là những hành vi có thật, đang diễn ra và được loan tải bởi truyền thông, báo chí. Phản ảnh hiện thực xã hội không thể được xem là tuyên truyền chống lại nhà nước CHXHCNVN
4. Dán khẩu hiệu "TTYN quyết tâm diệt cộng sản, giải phóng dân tộc" 

5. Long An trung dũng kiên cường toàn dân chống cộng suốt đời tự do" 

6. Dùng ngón tay chấm viết có nội dung "phỉ báng đảng CSVN
Đối tượng của những khẩu hiệu này là cộng, cộng sản đảng cộng sản - không phải là Chính quyền nhân dân / nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng CSVN và Nhà nước CHXHCNVN là 2 thực thể pháp lý khác nhau. 
7. Dùng ngón tay chấm viết có nội dung "không hay về Trung Quốc" 
Đây là cái chấm viết "không hay" mà công an muốn nói đến: 
Không cần dài dòng, Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha chỉ có "tội" nếu trong điều 88 BLHS, tất cả những cụm từ Chính quyền Nhân Dân, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đổi thành Chính quyền nhân dân Trung quốc hay Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Vì tính vô lý cực kỳ của nó, cáo buộc Dùng ngón tay chấm viết có nội dung "không hay về Trung Quốc" thể hiện rõ nhất bản chất và động cơ đằng sau bản cáo trạng này. 
8. Truyền đơn dán tiền lẻ - nội dung trung bình 116 chữ - xuyên tạc lịch sử, chính sách, chủ quyền biển, đảo, tôn giáo; phỉ báng chính quyền, kêu gọi người dân biểu tình, chống đảng CSVN. 
Bản cáo trạng không trình bày chi tiết, nội dung của truyền đơn, do đó chúng ta không thể có thể có những phân tích, bình luận chính xác. Tuy nhiên, dựa vào những cáo trạng dành cho những người tù của chế độ như Ts Cù Huy Hà Vũ, Phạm Thanh Nghiên, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải... chúng ta có thể hiểu rõ bản chất của cái gọi là "xuyên tạc lịch sử, chính sách, chủ quyền biển, đảo, tôn giáo; phỉ báng chính quyền, kêu gọi người dân biểu tình, chống đảng CSVN." 
Xin lưu ý, tất cả những dữ kiện của bài viết đều dựa vào bản cáo trạng của công an. Điều đó không đồng nghĩa bất cứ điều gì mà Bộ Công An - Tổng Cục An Ninh, Cục Bảo vệ Chính trị 5 gán cho 2 sinh viên yêu nước là đúng với sự thật. Nhưng với những gì từ chính văn bản của công an, chúng ta đã thấy nhiều điều vô lý, bẻ cong "tội danh" một cách khiên cưỡng. Sai trái lớn nhất và làm cho mọi cáo trạng trở thành vô nghĩa là đã nhầm lẫn giữa đảng cộng sản VN và chính quyền, nhà nước CHXHCNVN
Kết thúc bài viết này, xin gửi đến các bạn bài thơ trọn vẹn của sinh viên Nguyễn Phương Uyên để cảm nhận được tấm lòng tha thiết của người con gái Việt Nam yêu nước thương nòi này:
Ơi Đồng Bào Việt Quốc
Đất nước không chiến tranh 
Cớ chi đau thắt ruột 
Sự tự hào ngộ nhận 
Một chế độ bi hài sau chiến tranh 

Bọn cường quyền gian manh cơ hội 
Đào bới bóc lột dân lành 
Núp dưới bóng cờ máu, bác đảng 
Âm thầm bán từng mãnh đất quê hương

Tổ quốc thân yêu ơi! 
Đồng bào thân yêu ơi! 
Ôi, ta thương quá đi thôi! 
Vết sẹo hằn sâu vào trái tim, trải dài theo năm tháng 

Xuyên qua chiến tranh có những đống mồ hùng vĩ 
Người phơi thây ngã xuống mắt trừng trừng nhìn nhau 
“Hậu thế ơi hãy giữ gìn non sông” 
Ôi đất nước giờ tả tơi từng mãnh trao cho giặc! 

Sự hy sinh bất công! 
Xứ sở linh thiêng có còn không? 
Phật khóc, Thánh rơi lệ! 
Công lý lưu lạc để đức tin chìm vào đáy biển 

Tràn ngập hôn mê 
Ơi thanh niên Việt Quốc! 
Chúng ta là ai? 
Hãy đứng lên trước vận mệnh tổ quốc 

Giặc đang tràn tới ngõ 
Hãy đứng lên đi 
Đứng lên niềm tự hào để sử sách lưu danh 
Đứng lên đi cho tự do tỏa sáng 

Đứng lên đi giành lại Nước của dân lành 
Hỡi tất cả những ai là đồng bào việt quốc 
Hãy chung tay gìn giữ cội nguồn cho con cháu mai sau 

Nguyễn Phương Uyên
___________________________________
Những bài viết về Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha đã đăng trên Danlambao:
- Khi trời tối đen ta mới thấy các vì sao
SV Nguyễn Phương Uyên trong mắt bạn bè
- Sự khác biệt của thông tin lề Dân và lề đảng qua một bản tin - Phương Uyên con gái Sông Phan
- Yousafzai và Phương Uyên: “Bút và Thép”
 
*

Sunday 28 April 2013

Tai hại của tư bản đỏ

Tuesday, April 23, 2013 

Ngô Nhân Dụng
Trung Quốc đang qua mặt Hoa Kỳ, trở thành thị trường lớn nhất thế giới bán các món hàng xa xỉ: đồng hồ Rolex, túi xách tay Vuiton, các nhãn rượu Cognac, vân vân, đang chạy đua vào lục địa kiếm lời. Thị trường xe hơi ở nước Tàu gia tăng 8% một năm, nhưng riêng loại xe hạng sang như Mercedes, Audi, BMW, Rolls-Royce thì gia tăng với tốc độ 36% mỗi năm; đến năm 2020 thì Trung Quốc sẽ là nơi bán nhiều xe “de luxe” nhất thế giới.
Tất nhiên đại đa số khách hàng là các nhà tư bản đỏ.

Các nhà tư bản đỏ ở Việt Nam còn đang lạch bạch bước đằng sau trong cuộc chạy đua xa xỉ này. Trong việc khoe khoang tiền của và thế lực họ cũng có những “phong cách” riêng: Làm chùa! Xây nhà thờ tổ tiên. Làm đám cưới vĩ đại. Nhưng ai cũng thấy, đây là một “lực lượng xã hội” đang lên ở các nước cộng sản.

Nhiều người nhìn vào hiện tượng “tư bản đỏ” làm giầu nhanh chóng ở các nước “hậu cộng sản” như Nga, Ukraine, đã đem so sánh tầng lớp đại gia này với những “nhà quý tộc ăn cướp” (tạm dịch chữ robber barons) ở nước Mỹ vào thế kỷ 19; như J.P. Morgan, Rockefeller, Vanderbilt, vân vân. Cả hai nhóm đều tích lũy các tài sản khổng lồ, họ đều dùng tiền bạc để ảnh hưởng đến chính sách kinh tế của nhà nước để tiếp tục làm giầu,vân vân.

Nhưng có một điểm khác biệt sâu xa. Các nhà tư bản Mỹ vào thế kỷ 19, cũng như các gia đình Krupp ở Ðức, Agnelli ở Ý, và ngay cả các “chaebol” ở Nam Hàn vào cuối thế kỷ 20, đều khởi nghiệp bằng việc kinh doanh cạnh tranh thật sự, với những hoạt động tạo ra thêm giá trị kinh tế, tiếng chuyên môn gọi là “value-added.” Còn phần lớn các nhà tư bản đỏ khởi nghiệp không phải bằng kinh doanh cạnh tranh. Trái lại, họ dùng khả năng móc ngoặc để làm giầu nhờ được chế độ ưu đãi để tránh không phải cạnh tranh với ai hết.

Một gia đình Ðoàn Văn Vươn đổ công sức ra khai phá 40 mẫu đất ven biển thành đầm nuôi tôm cá là việc kinh doanh. Họ đã giúp “gia tăng giá trị kinh tế” cho khu đất hoang này. Một gia đình Trầm Bê dùng móc ngoặc để lấy giấy phép cho công ty chế biến lâm sản Ðông Anh phá rừng, chặt cây; được hưởng những món lợi khổng lồ so với công sức bỏ ra. Họ có thể “không gia tăng giá trị” mà lại làm “giảm giá trị” của một tài nguyên chung. Bởi vì nếu trong thị trường khai thác lâm sản có tự do cạnh tranh, ai cũng phải làm việc cho có hiệu năng hơn, sản xuất hàng tốt hơn, thì giá trị của những khối gỗ đó có thể còn cao hơn gấp bội. Nói chung, giới tư bản đỏ làm giầu nhờ những hoạt động “phi kinh tế,” có khi còn phản kinh tế.

Khi nói đến ưu điểm của hệ thống kinh tế tư bản, chúng ta biết nó nhờ hai cột trụ chính. Một là quyền tư hữu; hai là việc cạnh tranh tự do, trong luật lệ công khai minh bạch. Nếu chỉ có quyền tự hữu mà thiếu tự do cạnh tranh thì sẽ gây ra hiện tượng mà kinh tế học gọi là “rent-seeking,” tạm dịch là “thu tô,” giống như những chủ đất thời xưa ngồi mát ăn bát vàng “thu tô” của các nông dân, tá điền.

Ðể hiệu rõ hiện tượng thu tô này, có thể tìm thí dụ ngay trong một nước theo kinh tế tư bản lâu đời như nước Mỹ. Hiện tượng “thu tô” cũng diễn ra khi nhà nước can thiệp vào thị trường, vì thế đã ngăn cản hoặc giảm bớt sự cạnh tranh. Thí dụ như trong thập niên 1970, kỹ nghệ xe hơi ở Mỹ đang xuống dốc vì bị cạnh tranh bởi xe Nhật, họ bán xe bền, ít hao xăng, với giá rẻ. Ông Lee Iacocca, chủ tịch công ty Chrysler, đã bỏ thời giờ đi diễn thuyết khắp nơi về mối lo công nghiệp xe hơi Mỹ sắp bị xe hơi Nhật tiêu diệt. Ông cũng gặp các đại biểu Quốc Hội để vận động phục hồi ngành sản xuất xe, và để “cứu các công nhân” làm xe. Kết quả là, ngoài việc xin chính phủ bảo đảm để hãng Chrysler có thể đi vay nợ với lãi suất thấp, còn yêu cầu chính phủ ban hành lệnh “hạn chế tạm thời” việc nhập cảng xe Nhật. Chính sách đó được dân chúng và các nhà chính trị ủng hộ, vì tinh thần “bảo vệ quyền lợi quốc gia.”

Năm 1972, Quốc Hội Mỹ làm luật hạn chế xe Nhật “tạm thời.” Hậu quả là ngay sau đó giá mỗi chiếc xe hơi ở Mỹ đã tăng thêm từ 500 đến 1,000 đô la. Năm sau, công ty Chrysler đã báo cáo có lời một tỷ đô la, mà năm trước thì lỗ một tỷ! Ông Lee Iacocca được công ty thưởng “bonus” một triệu Mỹ kim, rất xứng đáng. Nhưng số chênh lệch hai tỷ đô la đó có thể gọi là “thu tô,” rents. Các công ty GM, Ford cũng được có lời.

Ở nước Mỹ, hiện tượng thu tô như vậy hiếm khi xẩy ra; vì chế độ dân chủ và tinh thần tôn trọng tự do cạnh tranh đã ăn sâu trong đầu óc người dân. Các công ty xe hơi Mỹ đã thành công trong thập niên 1970, sau khi đã thuyết phục được dư luận, nói rằng họ cần “có thời gian thở” để tái cấu trúc cho đủ sức cạnh tranh với xe Nhật; nếu không tất cả sẽ chết ngộp! Nhờ dân chúng Mỹ tin vào lý luận đó, các đại biểu Quốc Hội có lý do để “làm theo ý dân.”

Nhưng khi phá bỏ cả nguyên tắc tự do cạnh tranh thì người ta đã tạo cơ hội cho các nhà sản xuất xe “thu tô.” Người tiêu thụ phải trả tiền nhiều hơn khi mua xe. Các công ty xe hơi tiếp tục sống mạnh, nhưng họ vẫn chưa lo “cải tổ cơ cấu.” Một hậu quả tai hại là họ chỉ chú trọng đến việc vận động chính trị ngắn hạn mà không nghĩ tới kế hoạch kinh doanh lâu dài. Hệ quả tai hại khác là họ sẵn sàng ký những hợp đồng lao động “quá đắt” để làm vừa lòng các nghiệp đoàn. Sang thế kỷ 21, các công ty xe hơi Mỹ lại đứng trên bờ vực phá sản lần nữa, một phần vì không đủ tiền để trả bảo hiểm sức khỏe và hưu bổng cho những công nhân đã vào làm từ hơn hai chục năm trước, giờ đến tuổi về hưu. Một lần nữa, chính phủ Mỹ lại phải “ra tay cứu nguy” kỹ nghệ xe hơi! Trên đường dài, hiện tượng ‘thu tô” làm hại cho tất cả mọi người; người tiêu thụ thì phải trả giá đắt, nhà sản xuất thì yên tâm, nhắm mắt, không lo cải tổ cơ cấu. Chúng ta phải nhìn vào hiện tượng “thu tô” ngay trong một nước kinh tế tự do như ở Mỹ để thấy hiện tượng này có hại cho cả nền kinh tế, ở bất cứ nước nào.

Tại các nước cộng sản trong thời kỳ đổi mới kinh tế, hiện tượng thu tô diễn ra một cách công khai và thường xuyên, có khi vì chính những người đang chỉ huy bộ máy nhà nước muốn duy trì, hoặc vì các nhà tư bản đỏ đã lũng đoạn bộ máy nhà nước để tiếp tục hưởng lợi.

Tại sao ở các nước “hậu cộng sản” thường xẩy ra hiện tượng thu tô?

Vì khi “đổi mới kinh tế,” các nước này bắt đầu chỉ lo việc công nhận quyền sở hữu tư, cho phép tư nhân kinh doanh; thi hành các chương trình “tư nhân hóa” các xí nghiệp quốc doanh (ở Việt Nam gọi là cổ phần hóa). Công việc này có thể thực hiện rất nhanh, nhất là ở nơi nào chế độ cộng sản đã chính thức sụp đổ. Nhưng còn công việc thứ hai, rất cần thiết, là xây dựng nền tảng luật pháp cho một thị trường tự do cạnh tranh thì họ làm chậm chạp. Ở các nước còn chế độ cộng sản như Trung Quốc, Việt Nam (mà mai mốt sẽ đến lượt Cuba, Bắc Hàn) thì đảng cộng sản cố tình trì hoãn không đổi mới toàn diện và nhanh chóng. Họ không muốn hoàn thiện hệ thống thị trường, để tạo cơ hội cho chính các đảng viên cao cấp hưởng lợi nhờ thu tô. Nhưng ngay tại các nước chế độ cộng sản đổ rồi, tại Ðông Âu và Liên xô cũ, ở nhiều nơi hiện tượng thu tô vẫn phát triển mạnh.

Nói chung, tại các nước “đổi mới nhanh chóng” như Cộng Hòa Tiệp, Ba Lan, ba nước miền Baltics, thì nạn thu tô ít xẩy ra. Ở các nước “đổi mới chậm và đều” như Hungary, Croatia, Slovenia cũng vậy. Các chính quyền hậu cộng sản ở các nước này lo mau chóng thiết lập hệ thống luật pháp làm nền tảng cho kinh tế thị trường, đồng thời cải tổ hệ thống tư pháp, dân chủ hóa để tạo thói quen pháp luật công minh. Chính nhờ thiết lập nhanh các định chế thượng tôn luật pháp, kinh tế các nước trên đã tiến nhanh hơn và vững chắc hơn.

Ngược lại, một số nước Ðông Âu và phần lớn các nước trong liên bang Xô Viết cũ đã cải tổ kinh tế rất chậm chạp, hoặc tiến một bước lại lùi một bước. Khung cảnh “nửa kinh tế thị trường, nửa kinh tế chỉ huy” tạo cơ hội cho hiện tượng “thu tô” bùng nổ. Nhiều thứ “giấy phép,” những “quyết định” về cân bằng giá cả, về “kế hoạch phát triển,” vân vân, đã tạo cơ hội cho nhiều người làm giầu mà không cần thực sự sản xuất, không cần đóng góp với các hoạt động “gia tăng giá trị kinh tế.” Thay vào đó, muốn làm giầu tốt nhất là biết móc ngoặc, đi cửa sau, hối lộ, vân vân. Một bài sau trong mục này sẽ trình bày hiện tượng “thu tô” ở các nước đó; để rút kinh nghiệm cho Việt Nam.

Ðiều nguy hiểm nhất là trong khi luật lệ kinh tế thay đổi một cách chậm chạp, những nhà tư bản đỏ sẽ trở thành một lực lượng xã hội rất mạnh. Họ cản trở công việc cải tổ, không cho tiến những bước nhanh hơn. Bởi vì chính họ phất lên được là nhờ việc “thu tô” thay vì bằng việc kinh doanh cạnh tranh; nếu hệ thống kinh tế trở nên minh bạch, công khai và cạnh tranh ráo tiết hơn thì quyền lợi họ đang được hưởng lợi nhờ việc thu tô sẽ bị giảm bớt. Khi trì hoãn việc đối mới, họ cũng cản trở cả việc phát triển kinh tế chung của quốc gia.

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=165216&zoneid=7#.UX1uNUos7XQ
 

Saturday 27 April 2013

Ba mươi tám năm sau 30/4/1975, Việt Nam đen tối hơn bao giờ hết (Phạm Trần)


“ …trong hệ thống chính trị, không thiếu những kẻ bất tài vô học, chỉ đua đòi ăn chơi trác táng… Lại con gái, con trai mấy vị vào hàng “nguyên thủ” xây “khách ạn 5 sao”, du học nước  ngoài, chỉ suốt ngày gái gú, chơi game… Khi cần thì vẫn có thể xếp vào những cai ghế êm ru hái ra tiền…”

Cứ tưởng sau 30/4/1975 khi đất nước đã quy về một mối, hết còn chiến tranh thì mọi người Việt Nam ở hai chiến tuyến Bắc-Nam sẽ tay bắt mặt mừng, cùng nhau xây dựng lại Tổ quốc để được sống hạnh phúc, nhưng 38 năm sau lòng người vẫn phân tán, hạnh phúc còn xa tầm tay và đất nước chưa thấy ngày mai.
Đó là thực tế phũ phàng và đáng buồn, không ai muốn thấy nhưng nó đã xảy ra và chưa ai biết rồi vận nước và phận mình sẽ đi về đâu.

Sau đây là những nguyên nhân tạo thành bức tranh u ám ấy:

Thứ nhất, đảng cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã mất định hướng, kể từ sau Cuộc cách mạng “Đổi mới hay là chết” 1986 để cứu nguy đất nước dười thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Hy vọng vội vàng muốn đảng “mở cửa chính trị” và “ tư do tư tưởng” đã bị khoanh lại chỉ sau 2 năm ngắn ngủi.

Ngay cả những bài viết, được người dân và đảng viên hoan nghênh, trong mục “Những việc cần làm ngay trên báo Nhân Dân của Tác gỉa N.V.L. (Nói Và Làm hay Nguyễn Văn Linh) bàn về những việc cần phải sửa đổi  trong xã hội và chính quyền cũng bị rút lại.

Đến thời Tổng Bí thư Đỗ Mười, sau Đại hội đảng kỳ VII (27/06/1991), chính sách bóp nghẹt hà khắc được áp dụng theo Cương lĩnh gọi là “Xây dựng đất  nước trong thời ký qúa độ lên Chủ nghĩa Xã hội”. Kinh tế phát triển ngập ngừng “nửa nạc nửa mỡ” theo “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tham nhũng nở rộ. Đảng viên đi chệch hướng, nghi ngờ tính hữu hiệu của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh lên cao sau khi các nước Cộng sản Đông Âu rồi Nga Xô tan rã (từ 1989 đến 1991).

Ông Mười bỏ Nga theo Trung Cộng để được bảo vệ cả về an ninh, kinh tế lẫn lý  thuyết chính trị Cộng sản.
Có tin loan truyền rộng rãi ở Việt Nam nói rằng, khi ông Đỗ Mười sang Thành Đô (Trung Cộng), trong tư cách Chủ tịch Hội đồng Bộ trường (Thủ tướng) tháp tùng Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh và Cố vấn Phạm Văn Đồng họp với Tổng Bí thư đảng CS Trung Cộng Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng năm 1990, trước Đại hội đảng CSVN kỳ VII, phía Việt Nam đã ký với Trung Cộng một thỏa hiệp gọi là “Kỷ yếu hội nghị”, nhưng cả hai phiá đều “giữ bí mật”.

Ngoài việc hai nước nối lại bang giao sau Hội nghị Thành Đô, sau khi Việt Nam buộc phải rút quân khỏi chiến trường Cao Miên mà Việt Nam đã xâm lăng tháng 12/1978, đảng CSVN không cho ai biết ba ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng đã “thỏa hiệp” với Trung Cộng những gì!

Nhưng từ đó đến nay, Trung Cộng đã công khai “xâm lăng” Việt Nam từ kinh tế, lãnh thổ đến chính trị mà Việt Nam chỉ dám phản ứng yếu ớt.
Ông Lê Khả Phiêu thay ông Đỗ Mười từ Đại hội đảng VIII (28-6-1996), nhưng nội bộ đảng lại rệu rã thêm với tình trạng tham nhũng gia tăng, kỷ luật kém, nạn chạy chức chạy quyền lên cao. Cán bộ, đảng viên xa đảng và xa cả dân khiến liên hệ được gọi là “máu thịt” giữa dân và đảng loãng ra.

Vào tháng 2/1999, Ban Chấp hành Trung ương đưa ra Nghị quyết 6 (lần 2) về “một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay ” nhằm xây dựng, chỉnh đốn đảng.

Nghị quyết 1999 viết rằng: “Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy rmạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng phải có biện pháp phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố, chỉnh đốn, để ngày càng vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ.”

Đến Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) , sau khi ông Nguyễn Phú Trọng lên làm Tổng Bí Thư, thì Nghị quyết về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, giống hệt như Nghị quyết 6 (lần 2) của 13 năm trước được chấp thuận ngày 31/12/2011.
Văn kiện quan trọng này viết: “ Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”.

Nghị quyết nói rõ rằng : “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”

Như thế thì đảng CSVN đã “ mất định hướng” chưa hay vẫn còn nói là mới có “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá”, chưa đến tình trạng “tự rã đám” hay “tự ý tan hàng” ?
Ai theo Tàu hơn ai?

Thứ hai, nội bộ thì như thế, nhưng trong quan hệ với Trung Cộng thì ông Phiêu đã lưu lại vết nhơ không kém hai ông Linh và Mười bao nhiêu.

Dù Việt Namđã nhiều lần cải chính, nhưng việc  nhượng đất ở biên giới và lãnh hải cho Trung Cộng của “triều đại” Lê Khả Phiêu đã rõ trong 3 “Hiệp ước biên giới trên đất liền” (30/12/1999); “Hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong vịnh Bắc Bộ” “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ” (25/12/2000)

Cụ thể Việt Nam đã mất đất như thế nào thì hãy nghe lời kể của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ của CSVN tại Bắc Kinh từ 1974 đến 1989, như sau:

Đánh ta năm 1979 một mặt gạt bỏ sự hàm ơn của ta đối với những giúp đỡ trước đây của nhân dân Trung Quốc, mặt khác tự phơi bày ý đồ vụ lợi trong sự viện trợ cho ta. Khi không đạt được thì trở mặt…. Năm 1984, Trung Quốc huy động một Trung đoàn với hỏa lực mạnh liên tục tấn công bắn giết phân đội quân ta đóng giữ cao điểm 1.502 ở huyện Vị Xuyên, cuối cùng chiếm lấy cao điểm ấy làm điểm quan sát từ xa, nhòm vào nội địa ta. Ở biên giới phía Bắc nước ta từ trước đến nay, dân hai bên đã có những việc xâm canh, xâm cư, dân ta cũng có một số điểm xâm canh sang đất Trung Quốc, diện tích không đáng kể, dân Trung Quốc xâm canh, xâm cư sang nước ta tại rất nhiều điểm, tổng diện tích khá lớn. Trong đàm phán phân định biên giới, Trung Quốc luôn nêu lên “phân định theo hiện trạng”, tranh luận qua lại, Trung Quốc luôn nêu “nhân nhượng lẫn nhau vì đại cục(?), cuối cùng Trung Quốc vẫn ăn hơn thì mới chịu. Thác Bản Giốc vốn của ta nay họ chiếm đứt được một nửa. Xưa Nguyễn Trãi tiễn cha đến tận ải Nam Quan, trước nay  ta vẫn nói đất nước ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, sau đàm phán, biên giới nước ta tụt lùi xuống mãi đến chợ Tân Thanh, đối diện đã là trụ sở hải quan của Trung Quốc….” (17-03-2010, Bauxite Viet Nam)

Sau ông Phiêu, đến phiên ông Nông Đức Mạnh lên giữ chức Tổng Bí thư liền hai khoá đảng IX và X (từ 22/04/2001 đến 12/01/2011).

Trong 10 năm, ông Mạnh đã để cho Trung Cộng vào khai thác Bauxite ở Tây Nguyên, mặc dù không có phép của Ủy ban Trung ương đảng và của Quốc hội.  Rất nhiều Công ty của Trung Cộng đã được ưu tiên “trúng thầu” nhiều dự án kinh tế với giá rẻ, chiếm nhiều vị trí chiến lược dọc theo bờ biển và dọc theo biền giới, qua kế họach cho thuê đất rừng dài hạn đến 50 năm!

Về khai thác Bauxite, mặc dù đã bị hàng ngàn người dân, trong số có nhiều trí thức và chuyên viên Khoáng sản hàng đầu của Việt Nam, kể cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nguyên Phó Chủ tịch Nước Bà Nguyễn Thị Bình và Đức cha Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ban Công lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam khuyên can “dừng lại”, đảng vẫn hăm hở thực hiện mà chưa biết lợi hại về an ninh và kinh tế sẽ đưa đất nước đến đâu!

Ngày 24/4/2009, ông Trương Tấn Sang (khi ấy là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư ) đã thay mặt Bộ Chính trị ký Thông báo số 245- TB/TW về Kết luận của Bộ Chính trị về Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025. 

Kết luận viết: “ Chủ trương thăm dò, khai thác, chế biến bô-xít là chủ trương nhất quán từ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng đến nay. Triển khai các nghị quyết Đại hội, trong 2 nhiệm kỳ, Bộ Chính trị đã nhiều lần bàn và ra các nghị quyết, kết luận để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin, nhôm, phục vụ phát triển kinh tế đất nước nói chung, góp phần phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên nói riêng.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng và phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025 với bước đi cụ thể và chỉ đạo triển khai 2 dự án khai thác bô-xít, sản xuất alumin đầu tiên tại Tân Rai (Bảo Lộc, Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắc Nông); đồng thời, chỉ đạo tìm kiếm, lựa chọn đối tác nước ngoài có năng lực để hợp tác phát triển kết cấu hạ tầng và đầu tư xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin, nhôm. Chính phủ đã giao Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam là đơn vị có kinh nghiệm trong khai thác khoáng sản làm chủ đầu tư thực hiện 2 dự án và chủ trì đàm phán với các đối tác nước ngoài.”

“Đối tác nước ngòai”, không ai khác hơn chính là nhà thầu Chalieco của Trung Cộng, nước đã thúc ép ông Nông Đức Mạnh phải để cho họ nhảy vào khai thác vì nhu cầu quặng nhôm kỹ nghệ của Bắc Kinh !

Mắc mưu Trung Công?

Thứ ba, việc làm ì ạch của hai nhà máy Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông) đã khiến nhiều chuyên viên lo ngại sẽ sa lầy như nhiều dự án kinh tế khác có bàn tay người Trung Quốc dính vào.
Sự lo âu này đã được trả lời bằng việc sản xuất chậm mất 2 năm của nhà máy Tân Rai, nhưng sau khi chính phủ quyết định đình chỉ kế họach làm cảng Kê Gà,Bình Thuận (18/02/2013) vì phương án xây dựng cảng “không mang lại hiệu quả” để xuất khẩu quặng Alumin (sản xuất từ quặng Bauxite) thì các chuyên viên đã báo động “sẽ thua lỗ nặng” nếu Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) cứ “cố đấm ăn xôi”.

Trong khi Vinacomin tiếp tục cảng cổ ra cãi “sẽ có lời” thì từ Nhà máy Tân Rai (Lâm Đồng) các viên chức của Công ty TNHH MTV nhôm Lâm Đồng (đơn vị quản lý xí nghiệp mỏ tuyển) đã xác nhận tin 20.000 tấn alumin làm ra bị tồn kho chưa biết bán cho ai!
Báo Đất Việt Online ngày 19/04/2013 báo động: “Hàng ế tồn kho, công nhân thiếu việc làm, nợ lương, đường nát … là những điều có thể dễ kể ra khi người ta đến ‘thực mục’ tại tổ hợp bauxite nhôm Tân Rai (Bảo Lâm, Lâm Đồng).

Báo này viết: “ Đã 3 ngày qua, hơn 50 tài xế lái các loại xe đào, xe múc và xe ủi thuộc phân xưởng thi công cơ giới (Xí nghiệp mỏ tuyển bôxit Tân Rai) đã đồng loạt ngưng làm việc để phản đối các chính sách về định mức xăng dầu, tiền lương và thiếu việc làm khiến họ phải nghỉ triền miên.

Anh Nguyễn Đình Đề (tài xế xe ủi) phản ánh, anh đã làm việc ở đây đã sáu năm liền. Từ đó đến nay, anh và nhiều anh em khác chỉ được hưởng lương theo khối lượng công việc. Trong khi đó việc làm thì thất thường, mỗi tháng chỉ làm việc khoảng 16 ngày công.
Cũng theo anh Đề, từ đầu năm 2013 đến nay, lương của anh em rất thấp. Tháng 1, anh Đề chỉ nhận được gần 1,1 triệu đồng và tháng 2 là 1,2 triệu đồng, hiện vẫn chưa nhận được lương tháng 3. Định mức xăng dầu dùng cho các đầu xe ngày càng xuống thấp khiến tài xế lâm vào cảnh nợ nần.”
Ông Nguyễn Văn Thắng, phó tổng giám đốc Công ty TNHH MTV nhôm Lâm Đồng nói : “Nhà máy tuyển quặng và nhà máy sản xuất alumin đang chạy theo công suất không tương xứng nhau. Nhà máy tuyển quặng đã bàn giao nên sản xuất hết công suất, còn nhà máy alumin thì đang chạy thử nên chỉ chạy 50% công suất”.
Hiện tại, kho của nhà máy tuyển quặng đang tồn 40.000 tấn quặng tinh, nhà máy alumin tồn kho 20.000 tấn do chưa bán được. Hiện nhà máy alumin vẫn tiếp tục hoạt động, mỗi ngày sản xuất khoảng 1.000 tấn.
Ông Thắng cho biết hiện sản phẩm alumin chỉ mới được tiêu thụ trong nước với số lượng rất ít và chưa có hợp đồng xuất khẩu. Dự kiến đến tháng 6/2013 toàn bộ tổ hợp mới được bàn giao từ nhà thầu Chalieco (Trung Quốc). Khi việc kinh doanh sản phẩm alumin đi vào ổn định, hạn chế tồn kho thì 1.300 công nhân tại tổ hợp bauxite nhôm Tân Rai mới ổn định việc làm.”

Một trở ngại lớn và quan trọng khác là việc sửa chữa, nâng cấp Quốc lộ 20 để  chuyên chở Alumin từ Tân Rai về cảng Gò Dầu (tỉnh Đồng Nai) không tiến triển như dự liệu.

Báo Đầt Việt cho biết: “Quốc lộ 20 sẽ là cung đường chính phục vụ quá trình vận chuyển bauxite từ nhà máy Alumin Tân Rai (Lâm Đồng) về cảng Gò Dầu (Đồng Nai). Mặc dù việc nâng cấp, cải tạo đã thực hiện hơn 1 năm nhưng đến nay, con đường này vẫn chằng chịt ổ voi, ổ gà khiến người lưu thông qua đây lúc nào cũng nơm nớp lo tai nạn.
Trước đó Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 20 đoạn từ ngã tư Dầu Giây, huyện Thống Nhất - Đồng Nai đến TP Bảo Lộc - Lâm Đồng dài 120 km, khởi công từ tháng 12/2011 với tổng vốn đầu tư hơn 4.600 tỉ đồng từ nguồn vốn ngân sách, do Công ty Cổ phần BT20 thực hiện dưới hình thức xây dựng - chuyển giao.
 Mục tiêu của dự án là làm cho con đường cũ kỹ, xuống cấp này có đủ độ lớn và sức chịu tải phục vụ quá trình vận chuyển bauxite, đồng thời bảo đảm nhu cầu đi lại an toàn cho người dân. Thế nhưng chỉ riêng đoạn đường dài hơn 75 km chạy qua các huyện Thống Nhất, Định Quán, Tân Phú - Đồng Nai vẫn đầy rẫy ổ gà, ổ voi.
Mặt đường hẹp, có đoạn không đến 7 m, sờn tróc nham nhở và không có phần đường riêng cho xe máy. Một số đoạn đã thi công, cải tạo nhưng những “miếng vá” chưa kịp khô đã lại bong tróc và trở thành cái “bẫy” trên đường.”
Như thế thì “giấc mơ sẽ lời to” của dự án Bauxite Tây Nguyên sẽ đi về đâu? Và trong khi thị trường quặng Alumin đang hạ giá trên thế giới  khỏang 320 Mỹ kim 1 tấn thì các chuyên viên Khoáng sản độc lập của Việt Nam lo ngại Công ty Vinacomin của Chính phủ chỉ có thua và lỗ nặng, nếu họ thật lòng công khai và minh bạch “tổng cộng giá thành” gồm tất cả các khỏan tiền phí tổn để có được 1 tấn Alumin!

Giả thử như Trung Cộng sẽ mua nhưng bắt Việt Nam phải hạ giá xuống đến mức tối đa, trong khi không nước nào muốn mua hàng Việt Nam thì Vinacomin tính sao? Chẳng nhẽ cứ “giữ hàng tồn kho” để chờ giá lên cao mới bán thì đến bao giờ?

Và trong khi “hàng làm ra nhiều mà bán chẳng được bao nhiêu” thì lấy tiến đâu trả nợ và trả tiền công cho nhân viên, thợ thuyền?

Đấy là hiểm họa kinh tế đang treo trên đầu mỗi người dân Việt Nam, chưa kể thảm họa “bùn đỏ” độc hại ở thượng nguồn Tây Nguyên mà ông Nông Đức Mạnh đã để lại cho người dân sau 10 năm làm Tổng Bí thư đảng!

Cùng khai thác của ai?

Thứ tư, sau ông Mạnh thì đến phiên ông Nguyễn Phú Trọng nhận chức Tổng Bí thư ngày 19/01/2011 tại Đại hội đảng khóa XI.

Nhưng chỉ 10 tháng sau đó ông Trọng đã sang Bắc Kinh, gọi là thăm Trung Cộng, nhưng thật ra là để ký 6 điểm thỏa hiệp với Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Cộng Hồ Cẩm Đào, được gọi hoa mỹ là “Nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển Việt-Trung”, trong đó điểm nổi bật và then chốt là “hợp tác cùng phát triển”.

Thỏa hiệp ông Nguyễn Phú Trọng  ký ở Bắc Kinh ngày 11/10/2011 có 3 điểm quan trọng nhất là:

Điểm 2: ”Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.”

Điều 4:” Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.”

Điểm 5: “ Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.”

Cha đẻ của thuyết “gác tranh chấp để cùng khai thác”, ông Đặng Tiểu Bình cũng chính  là người  đã xua khỏang 600,000 quân Trung Cộng vượt  biên giới đánh sang 6 tỉnh cực bắc của Việt Nam hồi tháng 2/1979 mà ông ta bảo là “dạy cho Việt Nam một bài học” !

Nhưng Trung Cộng làm gì có chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông mà đòi “hợp tác cùng phát triển” ? Và dù biết rõ hai-năm-rõ-mười như thế mà tại sao ông Nguyễn Phú Trọng dám ký để “chia đôi  chủ quyền” với người hàng xóm chưa bao giờ “làm theo lời hứa” này ?

Giờ đây, Trung Cộng đã gọi đấu thầu Quốc tế ít nhất là 9 lô tìm kiếm dầu trong vùng “đăc quyền kinh tế” , hoặc  “nằm chồng lên” các lô tìm kiếm mà chính Việt Nam đã gọi thầu Quốc tế trước Trung Cộng ở giữa Quần đảo Trường Sa và bở biển tỉnh Khánh Hòa !
Trung Cộng cũng đã và đang  khai thác dầu trong vùng Vịnh Bắc Bộ dù hai bên chưa ngã ngũ về đường ranh giới chủ quyền, theo Thỏa hiệp năm 2000 thời ông Lê Khả Phiêu ?

Tăng cường đe dọa Việt Nam

Thứ năm, song song với hành động chiếm lấn chủ quyền biển đảo trắng trợn này, Trung Cộng còn tăng cường các tàu Hải quân, ngụy trang Hải Giám có võ trang đi tuần tra khắp vùng Biển Đông từ Hòang Sa xuống Trường Sa của Việt Nam để ngăn chặn, truy kích và bắn phá các ngư dân Việt Nam đến đánh cá ở Hòang Sa và Trường Sa.
Nhiều tàu đánh cá của Việt Nam đã bị đâm chìm khi đang hành nghề sâu trong vùng biển Vũng Tàu, Hải Phòng, Đà Nẵng và Quảng Ngãi từ 2 năm qua mà Hải quân và lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam không làm gì được!
Bằng chứng bỏ ngư trường mà chạy để bảo vệ tính mạng và tài sản đã được ngư dân đảo Lý Sơn nói thằng với Chủ tịch Nước Trương Tấn Sáng khi ông ra thăm đảo ngày 15/4/2013 vừa qua.

Đấy là chưa kể vụ 1 tàu cá Quảng Ngãi bị tàu Hải Giám Trung Cộng bắn cháy rụi nóc tàu ngày 20/3/2013 mà Trung Cộng bảo vì tàu Việt Nam xâm phạm “vùng biền của  họ” ?

Những vụ tấn công tàu cá Việt Nam diễn ra song song với cuộc tập trận 16 ngày (17/3-1/4/013)  ở Biển Đông của 4 tàu chiến Trung Cộng thuộc Hạm đội Hải Nam đã khiến các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam và Phi Luật Tân lo ngại.
Nhưng Hải quân Trung Cộng đã cho biết các tàu chiến của họ sẽ tập trận quy mô hơn thêm 40 lần nữa ở Biển Đông trong năm 2013. Các sĩ quan Hải quân Trung Cộng nói là các cuộc tập trận là nhằm “đánh dấu lãnh thổ” của Trung Cộng trên Biển Đông !

Trên mặt trận tuyên truyền để giành lấy biển đảo, Trung Cộng đã tổ chức du lịch ở Hòang Sa và tung ra bản đồ mới vẽ Hòang Sa và Trường Sa là của Trung Cộng, nhưng Việt Nam chỉ “phản đối suông” và cổ võ “giải quyết tranh chấp với Trung Cộng bằng biện pháp hòa bình”!

Những tiếng nói phẫn uất
Trước hiểm họa “lưỡng đầu thọ địch” của đất nước như thế mà lãnh đạo Đảng chỉ biết tập trung vào công tác đàn áp dân lành đi khiếu kiện oan sai và tố cáo cán bộ, đảng viên tham nhũng như đe dọa  của ông Huỳnh Phong Tranh, Tổng Thanh tra Chính phủ đưa ra tại Hà Nội ngày 18/4 /2013 thì có lương tâm không?
Bản tin của Ban Thanh tra viết: “Riêng UBND TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh phải kịp thời nắm bắt tình hình khiếu kiện đông người, có phương án cưỡng chế, giải toả đối với các công dân khiếu nại, tố cáo tập trung sai quy định về Trụ sở Tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước để tổ chức tiếp, hướng dẫn, vận động công dân trở về địa phương.

Đồng thời, không để các đoàn khiếu kiện đông người đến các khu vực hội trường nơi diễn ra các cuộc họp và nhà riêng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, xử lý kiên quyết hiện tượng người khiếu kiện trưng băng rôn, biểu ngữ, ngăn chặn việc chặn, đón xe Đại biểu Quốc hội.”

Như thế là ông Tranh chỉ mong sao cho các Ủy viên Trung ương đảng về họp Hội nghị kỳ 7 ở Hà Nội vào đầu tháng 5/2013 và sau đó đến lượt các Đại biểu Quốc hội về họp khoá 5, khai mạc ngày 20/5/2013, đừng nhìn thấy mặt dân khiếu kiện kẻo xấu mặt nhà nước hay sao?

Vì tính toán có hành động phản dân chủ, việc coi thường dân của Chính phủ trong khi lại chểnh mảng trước đe dọa của Trung Cộng ở Biển Đông đã rõ như ban ngày đã làm cho một số cựu tuớng lãnh, nhà thơ và nhà báo nổi tiếng của Việt Nam phải lên tiếng trong phẫn uất chưa bao giờ thấy ở Việt Nam.

Trước hết hãy đọc lời cảnh giác  của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh (nguyên Đại sứ của CSVN gtại Trung Cộng): “Việt Nam ta tất yếu phải cuốn theo kinh tế thị trường, nhưng lãnh đạo vẫn lấy CN Mác – Lênin làm cơ sở tư tưởng, vẫn chủ trương xây dựng CNXH. Thử hỏi xây dựng CNXH theo mô hình nào? Trong xã hội ta hiện nay, nội dung gì là XHCN, không ai chỉ ra được. Còn nói phát triển kinh tế thị trường “theo định hướng XHCN”. Cái đuôi “theo định hướng XHCN” thật là mơ hồ, vô nghĩa.”

Ông nói thẳng với lãnh đạo Nhà nước: “Vấn đề đặt ra đối với nước ta hiện nay là: thoát ra khỏi mọi ràng buộc tham lam, ác ý, thực hiện đường lối chủ trương độc lập tự chủ, thực hiện ngoại giao cân bằng giữa các nước lớn, một mặt không phá bỏ hiện trạng hữu nghị hòa bình với Trung Quốc, mặt khác thắt chặt mối quan hệ hữu nghị với các nước lớn Nga, Nhật, Ấn Độ, Mỹ, cải cách thể chế, thực hiện dân chủ, gắn bó với khối đại đoàn kết dân tộc, trọng dụng hiền tài, xóa bỏ mọi lợi ích nhóm, phe phái quyền lực để đưa đất nước thoát khỏi yếu kém tụt hậu và tiến lên.

(Trích từ Bài viết mới nhất của ông phổ biến trên các mạng báo Truyền  thông Xã hội trong nước: “Giữa Việt Nam và Trung Quốc không truyền thống hữu nghị, cũng không tương đồng về ý thức hệ)

Và sau đây là những dòng thơ thật buồn cho hòan cảnh của đất nước hôm nay của một số nhà thơ, nhà báo nổi tiếng ở Việt Nam.
Hãy đọc thơ của ông Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trường ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương:

Đất nước những năm thật buồn
Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt
Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc
Chung quanh yên ắng cả
Ngoài đường nhựa vắng tiếng xe lại qua
Người giàu, người nghèo đều ngủ
Cả bầy ve vừa lột xác
Sao mình thức ?
Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày mai tốt lành ?
Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm
Sớm mai còn giữ được màu đỏ ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác ?
Bao giờ buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường
Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi
Ấm áp ly cà phê sớm
Các bà các cô khỏe mạnh yêu đời
Hớn hở tập thể dục
Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt, tin yêu mọi người
Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi ?
Những cây thông trên núi Ngự Bình thấp thoáng ngọn nến xanh
Đời đời an ủi
Cho người đã khuất và người sống hôm nay …
(22/04/103)
(Trích từ blog Quê Choa của Nhà văn Nguyễn Quang Lập)
Điềm ơi!

Ông Lê Duy Phương viết sau khi đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn thật buồn” của Nguyễn Khoa Điềm:


Khi Điềm còn ở trên cao
Cái buồn thế sự đã vào chúng tôi
Bây giờ trời đã chiều rồi
Ngẫn ra thì muộn khóc cười làm chi
Phố phường vẫn lắm người đi
Hoa vẫn nở chẳng có gì khác đâu
Khác là ở chốn xa sâu
Trẻ em đi học không cầu qua sông
Khác là tận ngoài biển đông
Chủ quyền ta họ nói không lâp lờ
Riêng màu đỏ của ngọn cờ
Ở Đại Nội hay biển bờ xa xôi
Vẫn luôn phơi phới đỏ tươi
Nhạt là nhạt ở tình người Điềm ơi
Lê Duy Phương
(Nguồn blog Quê Choa)

Và nhà thơ Trần Mạnh Hảo đáp lời:
Đất nước có bao giờ buồn thế này chăng?

Đêm trường ma giáo mặt trời đỏ
Những dòng sông là đất nước thở dài
Chó sủa trăng nhà ai ?
Không phải vầng trăng đất nước
Tôi ngồi ngót bảy mươi năm
Chờ một lời nói thật
Bầy sói tru ý thức hệ lang băm
Người nông dân bị cướp đất phải hát bài dân chủ
Đêm đêm thạch sùng tắc lưỡi bỏ đi
Đất nước đang treo trên sợi chỉ mành
Sợi chỉ mành 16 chữ vàng và dối lừa 4 tốt(1)
Có kẻ rước giặc lên bàn thờ
Xì sụp lạy khấn tàn nhang chủ nghĩa
Những giáo điều làm cơm nguội bơ vơ
Xin cứ tự do bán lương tâm cho chó
Vãi linh hồn vào thùng rác nhân dân
Mối mọt ăn rào rào lòng rường cột
Ôi thương thay giẻ rách cũng tâm thần
Anh sẩm bạc đầu dẫn đường dân tộc
Đám gà què bàn hiến pháp cối xay
Đất nước có bao giờ buồn như hôm nay
Những thiên đường vỡ chợ
Những học thuyết đứng đường
Hoàn lương tượng đài
Hoàn lương chân lý
Nghị quyết còn trinh bạch cũng hoàn lương
Không ai đuổi cũng giật mình bỏ chạy
Nhốt hết mây trời vào hiến pháp tự do
Mơ được đứng bên lề đường
Nói một câu gan ruột
Đất nước buồn
Đất nước bị ruồi bu
Đất nước bị cầm tù trong ngực trái
Chưa kịp nghĩ một điều gì
Sao đã toát mồ hôi ?
Có nơi nào buồn hơn đất nước tôi ?
Lý tưởng của loài dơi là muỗi
Dơi bay đêm cho đất nước đỡ buồn
Không ai tin vào hoa hồng nữa
Không ai tin vào dơi nữa
Dơi trở về làm chuột khoét quê hương
Sài Gòn, 24-4-2013
(nguồn Internet)

(1) Chú thích của Phạm Trần: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”  do phiá Trung Cộng (Giang Trạch Dân) nói với Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tại Bắc Kinh năm 1999.

Bùi Minh Quốc

Nhân đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn”của nhà thơ – chiến sĩ Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ “Điềm ơi!” của nhà thơ – chiến sĩ Lê Duy Phương trên Quê choa của nhà văn – chiến sĩ Nguyễn Quang Lập, trân trọng gửi đến các đồng nghiệp đồng đội chiến sĩ – nghệ sĩ trong Hội nhà văn Việt Nam bài thơ dưới đây của tôi:

Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
 Tổ Quốc bao giờ nhục thế này chăng ?*
 Hãy trông kìa !
 Hãy trông kìa !
 Bọn thẻ – đỏ – tim – đen tiếm quyền hóa giặc
 Bịt biệng người kêu nỗi đau Ải Bắc
 Bóp cổ người thét nỗi nhục Hoàng Sa
 Sông có nghe nỗi nhục chuyển sơn hà ?
 Hãy trông kìa !
 Hãy trông kìa !
 Bọn thẻ – đỏ – tim – đen tiếm quyền hóa giặc
 Một lũ sói nhe nanh kết bầy nhâng nháo khắp
 Móc túi dân
 Cướp đất dân
 Bóp cổ dân
 Nỗi oan dâng núi thét sông gầm !…
 Hỡi sông Hồng
 Hỡi sông Hồng
 Hỡi sông Hồng tiếng thét bốn nghìn năm
 Tổ Quốc bao giờ nhục thế này chăng ?
Đà Lạt, 12/09/2008
 * Bài “Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ? ” của Chế Lan Viên có 2 câu mở đầu :
 Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?

(Nguồn: blog Quê Choa)
Sau cùng, chúng ta hãy lắng nghe tác giả Đoàn Vương Thanh, tức Nguyễn Thanh Hà, 79 tuổi, cựu phóng viên TTXVN giãi bầy tâm tư của ông trước thời thế  trên mạng báo Quê Choa của nhà văn Nguyễn Quang Lập :

“Tôi rất thích đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm, trong đó có bài Khúc hát ru những em bé ngủ trên lưng mẹ...Tôi đồng cảm nỗi buồn của Nguyễn Khoa Điềm và nỗi buồn của nhiều nhà văn, nhà thơ đã từng có thời gian lăn lộn trên các chiến trường ác liệt, nỗi buồn của nhiều ông tướng, ông Bộ trưởng về hưu hoặc sắp về hưu, cả nỗi buồn mất đất của nông dân, nỗi buồn một số trí thức muốn góp ý vào xây dựng Hiến pháp mới bị coi là “trí thức rởm” “suy thoái”, nỗi buồn của học sinh sinh viên đang thụ hưởng một nền giáo dục bế tắc…

Còn trong hệ thống chính trị, không thiếu những kẻ bất tài vô học, chỉ đua đòi ăn chơi trác táng… Lại con gái, con trai mấy vị vào hàng “nguyên thủ” xây “khách ạn 5 sao”, du học nước  ngoài, chỉ suốt ngày gái gú, chơi game… Khi cần thì vẫn có thể xếp vào những cai ghế êm ru hái ra tiền. Con gái một vị to đầu tư cho một khu đô thị sinh thái chiếm đoạt 500 ha đất canh tác của nông dân, nay không rõ ôm tiền đi đâu. Đặc biệt, những thông tin về nhóm lợi ích, về phe phái này “chiến đấu” với phái kia, dường như “một mất một còn”.

Một số vị ở vị trí cao của đất nước vẫn có những hành xử không đẹp đẽ chút nào, vẫn vì động cơ cá nhân ích kỷ…

Vì sao, đất nước sau gần 40 năm được thống nhất, có độc lập, hòa bình mà vẫn có mấy chục vạn phụ nữ trẻ phải “trần như nhông” để “bọn nước ngoài” lựa chọn để cưới làm vợ. Ai đã cấp hộ chiếu cho gần 30 vạn phụ nữ sang Hàn Quốc, Đài Loan “tìm chồng”, “lấy chồng”, trong nước còn có đến 30 vạn gái điếm và một lũ “đĩ quý tộc”?..

Ông Nguyễn Phú Trọng Tổng Bí thứ của Đảng, đã dũng cảm thừa nhận “đi đến đâu cũng thấy người hư hỏng…” mà lại chính là những người của ông, đã được rèn luyện phấn đấu nhiều năm. Bộ máy chính quyền vừa đông vừa không được việc, vừa nhiều vừa quan liêu. Cơ quan hành chính thì hành dân là chính, dân khiếu nại theo luật định thì bị ghép vào tội làm mất trật tự xã hội.”

Tất xả những dòng chữ, dòng thơ trên đây, tuy không ai có thể nhìn ra nước mắt, nhưng mỗi chữ, mỗi câu đã mang một nỗi buồn man mác như thúc giục  phải thoát ra từ mỗi trái tim đáng rướm máu vào dịp 30 tháng 4 năm 2013.

Cái  mốc thời gian của 38 năm sau ngày đất nước “thống nhất” lý ra phải tươi mát và rực rỡ hoan ca chứ đâu có buồn thảm đến nhường này?

Lỗi tại ai, hãy lỗi tại tất cả chúng ta, những người  dân đã sống nhục quen ?

Phạm Trần