27-4-13
Đúng ngày này của 38 năm về trước,
ngày 30-4-1975, đánh dấu cuộc chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam đã chấm
dứt nhanh gọn, phi lý và bất ngờ cho cả hai bên nội thù tham chiến, sau
21 năm diễn ra khốc liệt (1954-1975). Thế nhưng đây chỉ là sự kết thúc
một giai đoạn của cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc –Cộng tại Việt Nam. Cuộc
nội chiến ấy vẫn tiếp diễn từ sau ngày 30-4-1975 đến nay đã 38 năm và
vẫn đang tiếp tục. Vì cuộc chiến ấy vẫn chưa phân thắng bại. Và vì vậy
hàng năm cứ đến ngày 30-4, Việt cộng thì ăn mừng như một chiến thắng,
còn Việt quốc thì tưởng niệm như một “ngày quốc hận” và coi cả Tháng 4-1975 là “Tháng Tư Đen”. Vì sao Việt quốc lại gọi ngày 30-4-1975 là “ngày quốc hận” và tháng 4 -1975 là “Tháng Tư Đen”?
Để trả lời câu hỏi này, nội dung bài viết lần lượt trình bầy:
- Ý nghĩa từ ngữ “Ngày Quốc hận” và “Tháng Tư Đen”.
- Chúng ta hận ai, hận cái gì và hận để làm gì?
I/- Ý NGHĨA TỪ NGỮ “NGÀY QUỐC HẬN” VÀ “THÁNG TƯ ĐEN”.
Chúng tôi không biết cá nhân hay đoàn thể Việt quốc nào ở hải ngoại lần đầu tiên đã dùng từ ngữ “Quốc hận” để gọi ngày 30-4-1975 và “Tháng Tư Đen” để chỉ tháng 4-1975 . Nhưng điều đó không quan trọng bằng ý nghĩa của từ ngữ này đã nói lên được điều gì?
Theo suy luận của chúng tôi, thì cụm từ “Ngày Quốc hận 30-4”
diễn tả nỗi đau uất hận của những người Việt quốc gia từng sống ở Miền
Nam Việt Nam trước 30-4-1975, dưới chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng
Hòa.Vì ngày ấy đánh dấu chế độ tự do dân chủ non trẻ ở Miền Nam Việt
Nam bị cưỡng tử, khiến cho gần 20 triệu dân quân Miền Nam Việt Nam lúc
đó mất hẳn vùng đất tự do, rơi vào ách thống trị chế độ độc tài toàn trị
Việt cộng.
Chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị cưỡng tử, có nghĩa là đã bị bắt buộc phải “chết bất đắc kỳ tử”, khi
mà chế độ ấy cơ thể còn khỏe mạnh, không thể chết được hay ít ra chưa
thể chết được, còn có thể cứu vãn được tình hình để hồi phục và tồn tại.
Bị cưỡng tử vì chính quyền, quân, dân của chế độ có chính nghĩa ấy vẫn
còn thừa khả năng chiến đấu để tự tồn, trước một đối phương Việt cộng
phi chính nghĩa lúc đó đang ở thế cùng lực kiệt, thực sự không có khả
năng để chiến thắng như vậy.
Vậy mà, đối phương ấy đã được các
thế lực khuynh đảo quốc tế sắp xếp cho đóng vai kẻ thắng trận, trong một
cuộc chiến tranh Quốc-Cộng kéo dài 21 năm (1954-1975), chỉ vì nhu cầu
thay đổi thế chiến lược quốc tế mới của các cường quốc.Thật là điều bất
công, phi lý khi họ đã cho phe “Tà cộng” thắng “Chính quốc”;
quốc tế và đồng minh Hoa Kỳ đã làm ngơ bỏ mặc Việt Nam Cộng Hòa, trước
hành động xâm lăng của Việt cộng, vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris về
chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình choViệt Nam ngày 27-1-1973 dù có
những cam kết đa phương và bảo đảm quốc tế.
Như thế bảo sao người Việt quốc gia ở Miền Nam Việt Nam không uất hận. Chính vì vậy ngày 30-4-1975 đã là “Ngày Quốc Hận” và Tháng Tứ năm 1975 đã là “Tháng Tư Đen” đối
với người Việt quốc gia ở hải ngoại cũng như trong nước. Bởi vì ngày
ấy, tháng ấy đã diễn ra những sự kiện đen tối cho Việt quốc (bao gồm chính quyền quốc gia, người Việt quốc gia trong chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa) và là ngày tháng khởi điểm đưa Việt Nam vào một giai đoạn “Đen tối nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam thời cận đại”.
Đến đây , vấn đề đặt ra là: Chúng ta, những người Việt quốc gia hận ai, hận cái gì và hận để làm gì?
II/- CHÚNG TA HẬN AI, HẬN CÁI GÌ VÀ HẬN ĐỂ LÀM GÌ?
1.-Trước hết chúng ta hận ai và hận cái gì?
Về mặt khách quan, Việt quốc hận đối
phương Việt cộng và hận cả người bạn đồng minh Hoa Kỳ năm xưa, nay lại
đang là đối tác làm ăn với cựu thù Việt cộng.
Về mặt chủ quan, người Việt quốc gia
hận những người lãnh đạo hàng đầu về chính trị cũng như quân sự có
trách nhiệm trước sự sụp đổ chế độ Việt Nam Cộng Hòa và có thể hận với
chính mình nữa.
Thật vậy, người Việt quốc gia ở hải
ngoại 38 năm qua và có thể cho đến lúc chết vẫn mang trong lòng mối hận
người, hận mình, với tính chất và cường độ hận khác nhau.
Mối hận hàng đầu là đối với đối
phương Việt cộng. Với đối tượng này, tính chất và cường độ mối hận phải
được diễn đạt bằng ngôn từ căm hận hay thù hận. Căm hận hay thù hận Việt
cộng là điều tất nhiên, vì là đối phương, kẻ thù chính trong một cuộc
chiến phi nghĩa do họ phát động, tiến hành đã gây nhiều hận thù trong
chiến tranh. Và sau cuộc chiến tiếp tục gây nhiều thù hận vì đã xích hóa
nhân dân cả nước dưới chế độ độc tài cộng sản hà khắc, tàn bạo, phi
nhân.Trong chế độ này, Việt cộng đã xử dụng “Chuyên chính vô sản” cướp đoạt mọi tài sản của nhân dân Miền Nam (bị miệt thị là “Dân ngụy”), đầy ải, lăng nhục hàng trăm ngàn quân, dân, cán chính chế độ Việt Nam Cộng Hòa trong các trại tù “Tập trung cải tạo”.
Trong khi cha, mẹ, vợ con họ ở nhà bị Việt cộng phân biệt đối xử như
những công dân hạng hai, bị bạc đãi, xua đuổi khỏi các thành thị hay các
vùng đất mầu mỡ, đẩy đến các vùng kinh tế mới nơi đèo heo hút gió, đồi
núi khô cằn hay bùn lầy nước đọng; phải bỏ lại tất cả nhà cửa, đất đai
tài sản và các tiện nghi khác nơi các thành thị hay nông thôn, nhường
lại tất cả cho giai cấp mới, giai cấp cán bộ đảng viên cộng sản thụ
hưởng.
Không căm hận và thù hận sao được,
khi khởi đi từ Tháng Tư Đen 1975, Việt cộng đã đưa cả đất nước và dân
tộc vào một thời kỳ bi thảm và đen tối nhất trong lịch sử cận đại Việt
Nam. Bởi vì từ đó, Việt cộng đã phá nát tài sản quốc gia, của nổi cũng
như của chìm, nhượng đất, nhượng biển cho ngoại bang, làm băng hoại toàn
diện đất nước về vật chất cũng như tinh thần. Những truyền thống văn
hóa tốt đẹp của dân tộc và nền đạo đức luân lý xã hội cổ truyền đã bị
đảo lộn, phá hủy, thay vào đó cái gọi là “Nền đạo đức cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa”
vô luân, vô thần. Mọi tôn giáo, tín ngưỡng của người dân đều bị bài bác
và tìm cách tiêu diệt qua các hành động chống phá các giáo hội và đàn
áp, khủng bố các tín đồ dưới nhiều hình thức tinh vi, thâm độc. Mọi tầng
lớp nhân dân bị tướt đoạt các dân quyền và nhân quyền cơ bản. Đời sống
của quảng đại quần chúng nhân dân bị đói khổ lầm than và sự cách biệt
giầu nghèo giữa thiểu số giai cấp thống trị cán bộ đảng viên cộng sản
với tuyệt đại đa số nhân dân ngày một sâu sắc. Hệ quả là sau 38 năm cầm
quyền, Việt cộng đã làm tan hoang đất nước,lòng người ly tán, hận thù và
đói nghèo, di hại toàn diện và lâu dài cho nhiều thế hệ Việt Nam tương
lai phải gánh chịu.
Hận kẻ nội thù Việt cộng là như thế, còn đối với người bạn Hoa Kỳ đồng minh năm xưa thì sao, chúng ta hận gì?
Tất nhiên là có hận, nhưng mối hận có khác về tính chất và cường độ được diễn đạt bằng ngôn từ “Oán hận” hay “Uất hận”. Nó
tương tự như mối hận của một người tình bị phụ bạc sau những năm chăn
gối mặn nồng tưởng như chung thủy. Vì sao hận và hận cái gì?
- Câu trả lời chi tiết thì đã được
nhiều người đưa ra,còn câu trả lời tổng quát thì đã được Tướng Nguyễn
Văn Thiệu, vị Tổng Thống dân cử cuối cùng nền Đệ nhị chế độ Việt Nam
Cộng Hòa đưa ra trong bài diễn văn từ nhiệm ngày 21-4-1975 trước khi kịp
“lưu vong”, rằng “Họ đã bỏ rơi chúng tôi. Họ bán rẻ chúng
tôi. Họ đâm sau lưng chúng tôi. Thật vậy, họ đã phản bội chúng tôi. Một
nước đồng minh lớn đã không làm tròn lời hứa với một nước đồng minh
nhỏ…”. Đây là những lời tố cáo muộn màng của người lãnh
đạo cao nhất chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sau 9 năm cầm quyền, chẳng
thay đổi được gì, chỉ bầy tỏ nỗi uất hận của cá nhân và cũng là mối uất
hận chung của quân, dân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa trước sự phản bội
của Hoa Kỳ.
Sự bầy tỏ uất hận trên đây của cố
Tổng Thống Thiệu có tính đổ lỗi cho Hoa Kỳ,song vẫn không tránh khỏi mối
hận thứ ba của người Việt quốc gia đối với cá nhân Ông Thiệu và tập
đoàn lãnh đạo chính trị cũng như quân sự chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Vì chính họ đã là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm sụp đổ chế độ
Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30-4-1975, đã tạo tiền đề cho ngoại bang để
cho Việt cộng đóng vai kẻ chiến thắng trong cuộc chiến, dù chỉ là chiến
thắng giả tạo (Chiến thắng biểu kiến như chúng tôi phân tích trình bầy trong “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới”)
song thực tế đã để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và lâu dài
cho nhân dân, dân tộc và đất nước Việt Nam như mọi người đã biết.
Oán hận và uất hận
vì với trách nhiệm lãnh đạo, họ đã để mất Miền Nam Việt Nam vào tay
Việt cộng một cách dễ dàng, chóng vánh và hầu hết trong số họ đã kịp
cao bay xa chậy di tản ra hải ngoại trước khi chế đô Việt Nam Cộng Hòa
bị cưỡng tử, để lại sau lưng hàng trăm ngàn quân, dân, cán chính cho đối
phương Việt cộng hành hạ, xỉ nhục trong các trại tù “Cải tạo”
nhiều năm sau đó. Nhất là đã đẩy gần 20 triệu nhân dân Miền Nam Tự Do
rơi vào ách thống trị cộng sản độc tài và độc ác, cùng chia khổ và bị
xích hóa với nhân dân Miền Bắc trong gông cùm của cái gọi là “Cộng Hòa
Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam” kéo dài cho đến hôm nay đã 38 năm qua.
Trên đây là những mối “Hận người”, còn với “chính mình” thì sao?
Có lẽ chúng ta cũng phải xét mình để tự “hận mình”, song với tính chất và cường độ có khác, được diễn tả bằng từ “Ân hận”. Tùy vị trí trong xã hội Miền Nam, trong tương quan với cuộc chiến để có “mối ân hận khác nhau”.
Ân hận rằng nếu như ngày ấy, ở vị trí ấy mình nên làm thế này, không
nên làm thế kia thì có thể đã góp phần xây dựng và củng cố chế độ, chính
quyền, quân đội, xã hội ở Miền Nam ngày một vững mạnh, để không thể xẩy
ra “Ngày Quốc Hận 30-4-1975”, ngày cuối cùng của một “Tháng Tư Đen”.
Chặng hạn là người chỉ huy lãnh đạo các cấp chính quyền, quân đội “ân hận”
vì đã không quan tâm đúng mức và dồn hết tâm lực cho cuộc chiến chống
cộng bảo vệ chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa và phần đất Miền Nam tự do.
“Ân hận” vì đã lợi dụng vị trí lãnh đạo, chức quyền
mua quan bán chức, nuôi dưỡng lính ma lính kiểng để thủ lợi, tham nhũng,
đục khoét của công để làm giầu bất chính,tập trung vào các hoạt động
hưởng thụ, ăn chơi trong lối sống tương phản với cuộc chiến đấu gian
nguy của những người lính tham chiến trực tiếp với Việt cộng và đời sống
thiếu thốn của gia đình họ; Ân hận vì đã cấu kết bè phái để tranh danh
đoạt lợi, ám hại những người công chính, coi lợi ích cá nhân và phe nhóm
cao hơn lợi ích chống cộng, khoán trắng việc chống cộng cho Hoa Kỳ và
coi việc chống cộng thắng bại là trách nhiệm của Hoa Kỳ, do Hoa Kỳ hoạch
định, tài trợ mọi mặt.
Chẳng hạn là những thương gia ân hận
vì đã chậy theo lợi nhuận, móc ngoặc, mua chuộc hủ hóa các viên chức
chính quyền quân sự cũng như dân sự, môi giới buôn bán vũ khí và cung
cấp lương thực cho Việt cộng….
Chẳng hạn, là bậc cha mẹ đã ân hận
vì đã tìm cách chậy chọt cho con làm lính ma, lính kiển, được về phục vụ
hậu phương xa chiến trường lửa đạn. Là thanh niên ân hận vì đã tìm cách
trốn lính khi đến tuổi thi hành nghĩa vụ trai thời loạn.
Chẳng hạn là những người gốc Việt cộng, hay ngưỡng vọng Việt cộng, hay “Nằm vùng”, “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” sớm muộn nay đã “phản tỉnh”
thì ân hận vì những nhận thúc, hành động sai lầm trong quá khứ làm lợi
cho Việt cộng, hại cho Quốc gia ngày ấy….và di hại nghiệm trọng, toàn
diện, lâu dài cho đất nước, dân tộc cho đến hôm nay, sau 38 năm Việt
cộng thống trị cả nước. và cả sau này chưa biết bao giờ mới khắc phục
được.
2.- Đến đây, chúng ta mang mối “Hận” để làm gì?
Theo suy luận của chúng tôi, đối với Việt cộng, chúng ta “căm hận” không phải nuôi chí phục thù rửa hận theo kiểu “Răng đền răng, mắt đền mắt”
thời Trung Cổ ở Tây Phương; cũng không phải tìm cách diệt đến tên Việt
cộng cuối cùng, vì không phù hợp với bản chất nhân đạo và lý tưởng chiến
đấu của Việt quốc (mà dù ai đó có muốn thế cũng không thể làm được).
Nhưng điều chúng ta có thể, đã và đang làm và chắc chắn làm được để “phục thù”
Việt cộng là kiên trì đấu tranh vương đạo như đã kiên trì đấu tranh 38
năm qua nhằm tiêu diệt toàn bộ chế độ độc tài toàn trị Việt cộng để
thiết lập chế độ dân chủ pháp trị đa nguyên tại Việt Nam. Thắng lợi sau
cùng này của cuộc đấu tranh sẽ khẳng định sự tất thắng của chính nghĩa
quốc gia và như thế là chúng ta đã rửa được mối “Quốc hận 30-4-1975”
Đối với người bạn đồng minh Hoa Kỳ năm xưa, nay lại là “Đối tác”
làm ăn với Việt cộng, song cũng đang là đồng minh với chúng ta về mục
tiêu hiện thực lý tưởng tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam, mối “oan hận” của
chúng ta chỉ nên coi là bài học kinh nghiệm để có cách ứng xử thận
trọng và khôn ngoan hơn trong tương lai sao cho có lợi cho sự nghiệp
chống cộng vì tự do dân chủ cho Quê Mẹ Việt Nam. Đó là bài học kinh
nghiệm về tinh thần độc lập tự chủ, sức mạnh đoàn kết và luôn chủ động
trong tổ chức, chiến lược, chiến thuật đấu tranh chính trị, ngoại giao,
truyền thông, để huy động được sức mạnh nội lực (trong nước) cũng như
ngoại lực (quốc tế), nhưng luôn dựa trên sức mình là chính để chống cộng
và thắng cộng.
Đối với những người lãnh đạo có trách nhiệm
đã để chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, mối hận của chúng ta đến nay sau
38 năm dường như đã được cảm thống và tha thứ phần nào đối với những
người còn sống hay đã khuất. Nghĩ lại, trong bối cảnh Miền Nam vào những
năm tháng cuối cùng trước khi rơi vào tay Việt cộng, Hoa kỳ với ý đồ bỏ
cuộc và cố tình tạo tiền đề thuận lợi cho Việt cộng cưỡng tử Việt Nam
Cộng Hòa càng nhanh càng tốt, để khỏi phải dính líu thêm nữa, rút ngắn
thời gian đi vào thế chiến lược quốc tế mới, thì cá nhân cố Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu và tập đoàn lãnh đạo chính trị cũng như quân sự chính
quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó cũng chẳng làm được gì hơn là trốn chậy
để bảo toàn tính mạng, trừ khi họ dám chọn cái chết hào hùng để trở
thành anh hùng bất tử như các vị Tướng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê
Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ. Tiếc rằng phần đông họ đã không
chọn con đường như vậy, mà đã chọn con đường thà “Sống nhục hơn chết vinh”.Thôi thì công tội của họ xin hãy đề lịch sử mai này phán định công minh.
Riêng mối hận mình, mỗi người trong chúng ta hãy tự xét mình xem có điều gì “ân hận”
về những gì nên làm đã không làm hay không nên làm mà đã làm có lợi hay
có hại cho Việt quốc, có lợi cho Việt cộng trong cuộc chiến tranh Quốc-
Cộng hôm qua. “Ân hận” để tự rút ra bài học kinh
nghiệm vận dụng vào cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ cho Quê Mẹ Việt Nam
hôm nay, để chỉ nên làm những gì có lợi , tránh làm những gì có hại cho
cho sự nghiệp chống cộng vì tự do dân chủ cho đất nước. Có như vậy chúng
ta mới rửa được “Quốc hận 30-4-1975”, ngày cuối cùng của “Tháng Tư Đen”,để
đưa cất những ngày, tháng, năm này đi vào những trang lịch sử đen tối
nhất của dân tộc, đất nước, mở ra những trang sử mới tươi sáng cho Tổ
Quốc Việt Nam.
Thế nhưng thực tế sau 38 năm mất
nước (VNCH),qua các sinh hoạt nơi các cộng đồng Người Việt Quốc Gia
nhiều nơi ở hải ngoại, đã có những dấu hiệu đáng buồn và đáng tiếc, là
nhiều người vẫn chưa rút được bài học kinh nghiệm của quá khứ. Dường như
họ vẫn coi lợi ích cá nhân, bè phái cao hơn lợi ích chống cộng vì mục
tiêu dân chủ hóa cho Quê Mẹ Việt Nam. Vì lợi ích cá nhân và bè phái, họ
đã chống nhau, căm thù nhau có lúc, có nơi cường độ mạnh mẽ hơn cường độ
chống cộng rất nhiều.Họ là ai? Là những bạn bè, chiến hữu trong cuộc
chiến chống cộng hôm qua, từng bị Việt cộng đầy ải xỉ nhục trong các
trại tù “Cải tạo” sau cuộc chiến và từng kề vai sát cánh đấu tranh chống
cộng hôm nay.Thế nhưng họ đã quên quá khứ, quên tình bè bạn chiến hữu
để “bôi mặt đá nhau”. Miệng họ nói chống cộng, chống cộng mạnh miệng hơn
ai hết, nhưng hành động của họ hoàn toàn phản tác dụng. Dường như họ
chỉ dùng chống cộng như chiêu bài để có thế chống phá lẫn nhau để thủ
thắng? Dường như họ căm thù Việt cộng nhưng không biết cách nào “Phục thù”,
nên đã trút căm thù trên bạn bè chiến hữu của mình cho vơi bớt đi niềm
hân thù bị dồn nén chất chứa trong lòng?- Đó là những điều nghịch lý,
nhưng xem ra lại là một thực tế đã và đang xẩy ra khiến nhiều người Việt
quốc nặng lòng với sự nghiệp chung không khỏi lo ngại công cuộc “Rửa hận” , “phục hận” Việt Cộng sau 38 năm, rồi đây sẽ ra sao?- Còn phải mất bao nhiều năm tháng nữa chúng ta mới thành đạt mục tiêu tối hậu này?
Thiện Ý
No comments:
Post a Comment