Thursday, 11 April 2013

Bàn qua về hội chứng tuyệt đối trong “Chủ nghĩa Duy Ác” của Marx

4-2013

“Cái Tuyệt đối, ấy là thực tính của mi!” 
- lời phán của thần Apollon được ghi trong đền Delphes
Trần Mạnh Hảo (Danlambao) - Ngày 14-3-2013 là ngày giỗ lần thứ 130 năm của Karl Marx - ngày giỗ năm chẵn, một ngày giỗ tổ quan trọng nhất của những người cộng sản Việt Nam. Lạ thật, tịnh không thấy báo Nhân Dân, Tạp chí cộng sản, báo Quân đội nhân dân hay Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng, Công an nhân dân, Công an TP.HCM... những tờ báo cuối cùng ở Việt Nam thề quyết bảo vệ chủ nghĩa cộng sản tới chết nhắc tới ngày giỗ tổ của đảng cộng sản Việt Nam.
Chúng tôi đã vào công cụ tìm kiếm google.com đánh mã tìm kiếm: “kỷ niệm 130 năm ngày mất của Karl Marx và 195 ngày sinh của Marx” hiện ra 18 đề mục, chỉ có câu lạc bộ chơi tem Việt Nam (CLB Viet Stamp) nhắc đến hai ngày này bằng con tem có hình Marx mà thôi. Vì sao Đảng cộng sản Việt Nam lại lờ tịt ngày giỗ tổ, không thèm thắp cho cụ cố tổ “thiêng liêng” của mình một nén nhang? Có phải Đảng cộng sản Việt Nam đã chủ động bỏ ngày giỗ tổ, dấu hiệu cho thấy Marx đã bị chính những người cộng sản Việt Nam khai tử? Họ chỉ còn dùng tên ông và chủ nghĩa của ông để làm bình phong giữ đặc quyền đặc lợi mà thôi. Cũng có thể đảng cộng sản Việt Nam thấy đảng cộng sản Trung Quốc trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII ngày 17-12-2012 vừa qua đã im lặng từ bỏ Marx- Lenine- Mao Trạch Đông, không còn nhắc tên ba ông tổ này trong các văn kiện chính thức của đại hội, nên đảng cộng sản Việt Nam cũng a tòng noi theo chăng? Qủa thực, từ năm 1978, đảng cộng Trung Quốc đã chôn sống chủ nghĩa Marx bằng cách xây dựng kinh tế thị trường, tức kinh tế tư bản. Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chôn chủ nghĩa cộng sản bằng cách xây dựng xã hội tư bản chủ nghĩa vào năm 1986. Bởi, chủ nghĩa Marx về bản chất là một học thuyết kinh tế. Họ bỏ giỗ ông tổ Marx là quá logic. 
Nhân ngày giỗ lần thứ 130 năm của Marx 14-3-2013 vừa qua và sắp tới là ngày 5-5-2013, kỷ niệm 195 năm ngày sinh của vĩ nhân trên, chúng tôi viết bài báo này gồm có mấy phần sau: 
1. TỪ HI LẠP ĐẾN MARX, TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY LUÔN HƯỚNG VỀ CÁI TUYỆT ĐỐI 
2. TÁCH TÂM RA KHỎI VẬT, ÁP ĐẶT Ý ĐỊNH CHỦ QUAN LÊN VẠN VẬT LÀ SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT HỌC TỪ PROTAGORAS TỚI MARX 
3. MARX TIẾP THU (LẤY) MỌI HỌC THUYẾT TRƯỚC MÌNH, TRỪ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO 
4. NHỮNG CÁI SAI CĂN BẢN (SAI GỐC) CỦA HỌC THUYẾT MARX 
Xin quý độc giả đọc nội dung chính của bài viết: 
1. TỪ HI LẠP ĐẾN MARX, TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY LUÔN HƯỚNG VỀ CÁI TUYỆT ĐỐI 
Câu thần chú: - Cái Tuyệt đối, ấy là thực tính của mi - được cho là của thần Apollon (tiếng Hy Lạp: Απόλλων Apóllon) là thần ánh sáng, chân lý và nghệ thuật) tuyệt đối hóa cái tuyệt đối trong bản thể vũ trụ ám ảnh nền văn minh Hi Lạp từ buổi bình minh con người, khiến con người suốt cả mấy nghìn năm luôn luôn thao thức đi tìm linh hồn mình trong tuyệt đối Thượng đế, trong tự nhiên và trong chính xã hội mà nó cư trú… 
Diogenes Sinope, trong tiếng Hy Lạp cổ Διογένης / Diogenes (Sinope v 413 - Corinth, ca 327 trước Công nguyên), một tông đồ của thần Apollon, mỗi ngày lại mang cây đèn đi khắp hang cùng ngõ hẻm thành Athènes đầy ắp người ta, để tìm một con người tuyệt đối giữa ban ngày nhưng tuyệt nhiên không thấy. Hình như toàn bộ nền triết học Hi Lạp (và cả châu Âu sau này), cũng bị hội chứng đi tìm con người tuyệt đối, xã hội tuyệt đối, thiên đường tuyệt đối trên mặt đất của Diogène làm cho mất ăn mất ngủ...
Protagoras (pron.: / p r oʊ t æ ɡ ə r ə s /; Hy Lạp: Πρωταγόρας, ca 490 TCN - 420 TCN) [1] Nhà triết học Hy Lạp trước Socrates, triết gia duy vật sơ khai, tuyệt đối tự tin đến mức chủ quan, đẩy con người vượt lên cả Thượng đế, kích thích chú bé Hi Lạp ấu thơ hãy vươn lên thành người khổng lồ cai trị vũ trụ: “Con người là thước đo của vạn vật”. 
Thalès de Milet gọi là Ta-Lét (tiếng Hy Lạp: Θαλῆς ὁ Μιλήσιος; khoảng 624 TCN – khoảng 546 TCN), triết gia khởi nguồn văn minh Hi Lạp coi nước là tuyệt đối vũ trụ thì Heraclite coi lửa là tuyệt đối của vạn vật. Anaximandros, coi tuyệt đối là cái tuyệt đối không thể tìm thấy trong một vũ trụ tuyệt đối bất định. Democritos lại đi tìm bản nguyên vũ trụ thông qua tuyệt đối-nguyên tử, phần tử nhỏ nhất của vũ trụ tuyệt đối không thể bị chia cắt. 
Xenophanes của Colophon (tiếng Hy Lạp: Ξενοφάνης ὁ Κολοφώνιος; 570 - 475 TCN) cho rằng tuyệt đối nằm trong thực tại khách quan chứ không nằm trong tay thần linh với câu nói nổi tiếng: “Nếu con ngựa, con bò biết vẽ, chúng sẽ vẽ thần linh của chúng có hình ngựa, hình bò!”. 
Pythagoras (tiếng Hy Lạp: Πυθαγόρας; sinh khoảng năm 580 đến 572 TCN - mất khoảng năm 500 đến 490 TCN) nhà toán học vĩ đại lại đi tìm tuyệt đối trong các con số, trong phép mầu toán học. 
Sokrates hay Socrates (Về năm sinh của ông hiện vẫn chưa có sự thống nhất giữa năm 469 hay 470. (469 - 399 TCN), (470 - 399 TCN) - triết gia khởi nguồn túi khôn Hi Lạp đã bị tử hình vì dám đưa tinh thần Hi Lạp từ trong đền thờ Apollon ra xã hội con người, khuyên người ta nên đi tìm cái đẹp linh hồn trong thân xác, để thấy linh hồn đồng nhất với thượng đế tuyệt đối. Ông tuyệt đối hóa vai trò của trí tuệ để đi tìm chân lý tuyệt đối… 
Platon (tiếng Hy Lạp: Πλάτων, Platōn, "Vai Rộng"), khoảng 427-347 TCN lại đi tìm một thế giới tuyệt đối ý niệm trong linh hồn bất tử. Ông là người đầu tiên chỉ hướng cho nhân loại đi tìm một xã hội tuyệt đối thiên đường, tuyệt đối hoàn thiện hoàn mỹ là xã hội cộng sản tuyệt đối không còn tư hữu, được sinh ra trong ý niệm duy tâm của ông qua tác phẩm trứ danh “ Cộng Hòa”. Có điều xã hội cộng sản của Platon là một xã hội cộng sản nhân đạo, tuyệt đối cấm giết người. Marx, hơn 2000 năm sau đã lấy ý tưởng này của Platon để xây dựng chủ nghĩa cộng sản bằng “vũ khí duy ác”, bằng phương pháp duy nhất là giết người “ chôn tư bản”, giết tất cả các giai cấp khác trừ giai cấp vô sản. Con đường đi vào thế giới cộng sản của Platon có Thượng Đế và tình thương yêu nhân loại đi kèm, tuy chỉ là một xã hội giả tưởng. Ngược lại, con đường đi lên thế giới đại đồng, đi lên thiên đường cộng sản của Marx là con đường đầy máu và nước mắt với những núi núi sọ người như đã từng xảy ra ở Nga cộng, Tàu cộng, Triều cộng, Cu cộng, Việt cộng... và như hậu duệ cuối cùng của Marx là Pôn-pốt Iêng-xa-ri vừa thực hiện thiên đường cộng sản là những cánh đồng chết với sự tham gia của qủy dữ. 
Triết gia hàng đầu của triết học Kinh Viện Thánh Aurielius Augustinus (sinh ngày 13 tháng 11,  354, mất ngày 28 tháng 8, 430) - người đã Platon hóa thần học Thiên Chúa giáo và ngược lại (sau này Thánh Thomas Aquin cũng làm như vậy với Aristote), tìm tuyệt đối trong linh hồn thánh thiện, từng phán: “Làm cho chính mình trở thành chân lý” (Vé rum tacere se ipsum); rằng khi có Chúa tồn tại trong anh em, linh hồn anh em là một với tuyệt đối Thiên Chúa. Sau này, Marx đã lấy câu kinh trên của Thánh Augustinus sau khi xua đuổi Chúa Trời để biến các ảo tưởng duy tâm cực đoan của mình thành chân lý duy nhất, chân lý vĩnh hằng giúp các hậu duệ chân truyền của ông như Lenine, Stalin, Mao Trạch Đông... tiêu diệt những kẻ bất đồng chính kiến bằng gông cùm tù tội bắn giết. 
René Descartes (sinh ngày 31 tháng 3 năm 1596 – mất ngày 11 tháng 2 năm 1650) tuyệt đối hóa tư duy, cho tư tưởng con người thể hiện trong khoa học là cái tuyệt đối với hai câu nói nổi tiếng vượt qua những rào cản của thần học, tôn sùng một Thượng đế khác là lý trí: “Tôi tư duy, tôi tồn tại”, hoặc: “Trừ tư tưởng của ta, chẳng có gì tuyệt đối nằm trong tay ta”. 
Immanuel Kant, (sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 tại Königsberg; mất ngày 12 tháng 2 năm 1804 tại Königsberg) triết gia vĩ đại nhất của nước Đức và châu Âu, người từng muốn dung hòa hai cực đoan duy vật và duy tâm trong triết học phương Tây bằng sự “phê phán lý trí thuần túy”, hướng con người về thế giới “tiên nghiệm” với thuyết: Lệnh thức tuyệt đối (kategorischer Imperativ) cho rằng tuyệt đối không thể nhận thức được “vật tự nó”. Nhưng từ I. Kant, hình như triết học truy tìm cái tuyệt đối bản thể vũ trụ phương Tây thiếu tự tin, toan tìm một lối rẽ sang phương Đông khi ông tương đối hóa cái toàn thể: Từ “toàn thể”luôn luôn chỉ có nghĩa tương đối...” 
Georg Wilhelm Friedrich Hegel (27 tháng 8 năm 1770 - 14 tháng 11 năm 1831) – người đã từng tuyên bố biện chứng pháp của tôi là lấy từ triết gia Heraclitus Êphêsô (Hy Lạp cổ đại Ἡράκλειτος không Ἐφέσιος / Hêrákleitos Ephésios ho) là một nhà triết học Hy Lạp từ cuối thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên.). Hegel đã phát triển biện chứng pháp của Héraclite tới mức hoàn thiện, tất nhiên là biện chứng pháp tinh thần theo ý niệm tuyệt đối của ông. Sau này, một người học trò của Hegel là K. Marx đã lật ngược biện chứng pháp tinh thần của Hegel để thành biện chứng pháp duy vật của Marx. Hegel đã tìm ra quy luật chung của phép biện chứng trong tư duy, trong tự nhiên và xã hội với sự hỗ trợ của Thượng Đế. Hegel đã dùng khái niệm Thượng Đế của Spinoza (Benedictus de Spinoza hay Baruch de Spinoza (24/2/1633 - 21/2/1677) là một nhà triết học người Hà Lan gốc Do Thái) để làm một cuộc cách mạng thực sự của thần học có phần nghiêng về thuyết phiếm thần, chỉ bước nửa bước nữa là tới vô thần. Spinoza cho rằng Thượng Đế không phải là một cá thể toàn năng, độc thần, tuyệt đối như quan niệm của Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo và Hồi giáo; mà Thượng Đế chính là toàn thể vũ trụ, toàn thể thế giới tự nhiên trong đó có con người sinh sống. Hegel chỉ ra lịch sử loài người có thể phát triển tới cái tuyệt đối toàn thiện toàn mỹ (một thiên đường dưới thế) với sự hướng dẫn của Thượng Đế theo hướng chỉ đường của tính thiện căn tức chủ nghĩa nhân đạo Thiên Chúa giáo. 
Marx từ bỏ đạo đức Thiên Chúa giáo của Hegel, quyết mang thiên đường từ trời xuống thế để tìm cái tuyệt đối nơi trần gian, thánh hóa con người bằng bạo lực, quyết dùng máu của giai cấp tư bản để xây dựng xã hội cộng sản ảo tưởng bằng Ý NIỆM TUYỆT ĐỐI DUY VẬT. Marx, một lần nữa, lặp lại hình ảnh triết gia Diogen của Hi Lạp xa xưa, cầm đèn đi giữa ban ngày để tìm kiếm giấc mơ cộng sản của mình trên mặt đất duy ác. 
2. TÁCH TÂM RA KHỎI VẬT, ÁP ĐẶT CHỦ QUAN CON NGƯỜI LÊN VẠN VẬT LÀ SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT HỌC TỪ PROTAGORAS ĐẾN MARX: 
Triết học phương Tây từ Hi Lạp tới Marx mắc một căn bệnh trầm kha, đưa tới sự cáo chung của triết học, ấy là căn bệnh tách TÂM (duy tâm) ra khỏi VẬT (duy vật). Bệnh này đưa đến cuộc truy nguyên (tranh cãi) vô hồi kỳ trận trong triết học: TÂM có trước hay VẬT có trước, VẬT sinh TÂM hay TÂM sinh VẬT? Rằng trứng đẻ ra gà hay gà đẻ ra trứng? Rằng con người sinh ra từ con khỉ (Darwin) hay có một Đấng toàn năng nào đó nặn ra con người từ đất sét như Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo đã tin tưởng? Cho đến nay, khoa học thực nghiệm phương Tây vẫn còn ngơ ngác hỏi: vũ trụ này, tồn tại này sinh ra do TẤT ĐỊNH (do Chúa, do Đấng Toàn Năng) hay do NGẪU NHIÊN (do vụ nổ lớn Big Bang) tạo ra? Cho đến nay, câu hỏi của người Sume mở đầu văn minh Lưỡng hà (mở đầu văn minh nhân loại?), sắc dân tìm ra chữ viết để viết trên gốm sớm nhất, rằng: con người từ đâu đến, đến đây làm gì và đi về đâu vẫn chưa được các nền văn minh hậu bối trả lời, kể cả Einstein hay đức Đạt Lai Lạt Ma...
Chỉ biết rằng, cho tới hiện nay, khoa học thực nghiệm phương Tây đã dẫn dắt nhân loại qua những bước tiến khổng lồ về vật chất như tìm được bản đồ gen người, sinh sản vô tính, đưa người lên vũ trụ, dùng kính viễn vọng nhìn ra vũ trụ khôn cùng... Ngược đời thay, khoa học càng ngày càng tiến lên càng thấy mình gần với tôn giáo... Khoa học tò mò hé mắt qua kính viễn vọng thiên văn Hubble, hoặc kính viễn vọng khổng lồ Alma nhìn ra vũ trụ để thấy trái đất này, thái dương hệ này cũng chỉ là kiếp hạt bụi tí con con; hoặc bồi hồi tìm ra hạt Higgs (hạt của Chúa Trời)... chợt sợ hãi nếu đột nhiên mình lại tìm ra hạt của qủy sứ... Nhưng khoa học thực nghiệm chừng như đã bất lực, khi nó lơ mơ cảm thấy rằng hình như vũ trụ này đã được một lực lượng siêu nhiên nào đó lên chương trình từ A tới Z, đã mã hóa mọi hoạt động của con người và tự nhiên từ mở đầu đến kết thúc? 
Công cuộc tách TÂM ra khỏi VẬT của nền triết học phương Tây ngót ba nghìn năm nay giờ đã đến lúc nhận lấy một hậu quả kinh hồn: toàn bộ nền văn minh vật chất đã dùng khoa học thực nghiệm đưa con người vượt lên phía trước với tốc độ siêu âm, bỏ lại nền văn minh tinh thần tiến như rùa bò vẫn còn cố níu lấy luân lý và đạo đức thế kỷ ánh sáng thứ 17, tiếc nuối thế kỷ thứ 18 của cách mạng Pháp và tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ hào sảng tính nhân văn? Trong con tàu vũ trụ trái đất bay đến tương lai, dường như tinh thần nhân loại đã bị văn minh vật chất bỏ lại ở rất xa trong quá khứ, có cơ hồn sẽ lìa khỏi xác, một nhân loại DUY VẬT không có DUY TÂM đi kèm, một nhân loại ác không có thiện đi kèm, phải chăng là dấu hiệu của ngày tận thế? 
Nhân loại đang tới gần nguy cơ tự hủy diệt khi thân xác bỏ rơi linh hồn, khi khoa học bỏ rơi tôn giáo, khi cái ác bỏ rơi cái thiện, khi VẬT bỏ rơi TÂM, khi loài người sắp đánh mất tuổi thơ, đánh mất tôn giáo và Thượng Đế...? 
Tách TÂM ra khỏi VẬT (và ngược lại) thì TÂM ấy không còn là TÂM, VẬT ấy cũng không còn là VẬT nữa? Tách TÂM ra khỏi VẬT (và ngược lại) khác nào tách HỒN ra khỏi XÁC. Một cái xác không hồn, cái xác ấy là một vật chết, quyết không còn là con người nữa. Một cái hồn không có xác để cư trú, cái hồn ấy chỉ có thể là hư vô. 
TÂM và VẬT, HỒN và XÁC là quá trình đồng thời, tuyệt nhiên không thể dùng phương pháp phân tích theo kiểu mổ xẻ: trước hết là TÂM hay trước hết là VẬT theo kiểu triết học phương Tây đã quan niệm và cãi nhau chí chết để cùng nhau treo cổ triết học vậy. 
Người phương Đông quan niệm TÂM với VẬT là một. Tôi đang bàn về Vật, cũng có nghĩa là tôi đang nói về Tâm đấy. Người phương Đông cho con người là tiểu vũ trụ nên tạo ra một tam vị nhất thể (tam tài) thống nhất THIÊN ĐỊA NHÂN. Người phương Đông coi con người là con đẻ của tự nhiên, từ tự nhiên mà sinh ra, rồi lại quay về với tự nhiên, không bao giờ coi mình cao hơn tự nhiên hay bá chủ tự nhiên như triết học phương tây quan niệm. 
Bằng một danh ngôn vĩ đại, triết gia Protagoras đã chỉ hướng cho nền văn minh phương tây tha hồ áp đặt chủ quan của con người lên toàn thể vũ trụ: “Con người là thước đo vạn vật”. Sao lại lấy cái giới hạn làm thước đo cái vô hạn? Con người là tùy thể của vũ trụ hay ngược lại? Con người sinh ra vũ trụ hay ngược lại mà lại lấy con người làm thước đo vũ trụ? 
Lấy VẬT phủ nhận TÂM, dùng vật chất phủ nhận mọi giá trị tinh thần con người, áp đặt chủ quan vô cùng duy tâm của mình lên mọi vật rồi gọi là duy vật chủ nghĩa, áp đặt rất nhiều điều phi lý, không tưởng của mình lên con người, lên xã hội và lịch sử con người rồi gọi là duy vật biện chứng, phủ nhận lịch sử nhân loại trước mình rồi gọi là duy vật lịch sử, Marx và Engels đã biến chủ nghĩa hoang tưởng của mình thành đoạn đầu đài để hành hình triết học, để đưa triết học phương tây vào huyệt mộ của bế tắc bằng vũ khí duy nhất là cái ác. 
3. MARX TIẾP THU (LẤY) MỌI HỌC THUYẾT TRƯỚC MÌNH, TRỪ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO 
Karl Marx tiếp thu (lấy) hơn 90 % học thuyết Hegel làm học thuyết của mình, trừ Thượng Đế và chủ nghĩa nhân đạo. (Nói đến Marx, cũng có nghĩa là nói đến Engels, vì hai ông là đồng tác giả của chủ nghĩa cộng sản bạo lực. Chúng tôi không bàn đến các đao phủ thủ của chủ nghĩa duy ác là Lenine, Stalin, Mao Trạch Đông và hàng tá các đao phủ thủ tí con con Âu Á cộng sản khác...) 
Ngay cả ba phạm trù nổi tiếng của Marx được cho là phương pháp luận khoa học như: lượng biến thành chất, sự phủ định của phủ định và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thống nhất từng là những phát hiện của Héraclite và Hegel. 
Karl Marx đã xua đuổi chủ nghĩa nhân đạo ra khỏi thuyết duy vật còn biết thương người của Feuerbach (Ludwig Andreas von Feuerbach (ngày 28 tháng 7 năm 1804 - ngày 13 tháng 9 năm 1872) là một nhà triết học Đức và nhà nhân chủng học) sau khi tiếp thu (lấy) 90% học thuyết duy vật của Feuerbach thể hiện trong tác phẩm “ Hệ tư tưởng Đức” của Marx. Marx đã kết hợp biện chứng Hegel với duy vật Feuerbach để tạo ra duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. 
Marx quét sạch chủ nghĩa nhân văn (nhân đạo) ra khỏi học thuyết cộng sản trong tác phẩm “Cộng Hòa” của Platon (Platon (tiếng Hy Lạp: Πλάτων, Platōn, "Vai Rộng"), khoảng 427-347 TCN, nhà  triết học cổ đại Hy Lạp được xem là thiên tài trên nhiều lĩnh vực, có nhiều người coi ông là triết gia vĩ đại nhất mọi thời đại cùng với Socrates (Σωκράτης) là thầy ông) để lấy nguyên mẫu mô hình xã hội cộng sản này của Platon, xin trích: 
“PLATON: Lí tưởng cộng sản lần đầu tiên được Platon định danh về mặt lí luận trong các trước tác của mình. Trong tác phẩm Cộng hoà, thông qua Socrates, Platon khẳng định rằng bất hoà và chiến tranh có nguồn gốc từ sở hữu: 

“Sự khác nhau như thế thường xảy ra do bất đồng về những từ như ‘của tôi’ và ‘không phải của tôi’, ‘của anh ta’ và ‘không phải của anh ta’… Chả lẽ việc xây dựng một nhà nước, nơi đa số người cùng sử dụng những từ như ‘của tôi’ và ‘không phải của’ đối với cùng một loại đồ vật không phải là cách làm tốt nhất hay sao?” 
Trong các phẩm Các qui luật, Platon còn dự báo một xã hội, nơi người ta không những sở hữu chung tất cả, kể cả vợ con mà còn: 

“riêng tư và tư hữu bị loại bỏ khỏi đời sống, những thứ về bản chất là riêng, thí dụ như mắt và tay cũng trở thành của chung và ở mức độ nào đó người ta cùng nhìn, cùng nghe và cùng hành động, tất cả mọi người cùng ca tụng hay cùng lên án, cùng vui cùng buồn vì cùng những lí do như nhau” 

Aristotle, học trò của Platon, lại ngờ rằng cái Utopia cộng sản đó sẽ không đem lại hoà bình vì một lí do đơn giản là khi cùng sở hữu thì người ta dễ sinh ra cãi cọ hơn là tư hữu. Hơn nữa, ông khẳng định rằng nguồn gốc của các tranh chấp không nằm ở sự tư hữu mà ở ước muốn được sở hữu: “không cần cào bằng sở hữu mà phải san bằng ước muốn của con người”. 
(Richard Pipes - Chủ nghĩa cộng sản)- Phạm Minh Ngọc dịch 
(hết trích) 
Marx cũng tiếp thu (lấy) ý tưởng về một xã hội tuyệt mỹ “ thiên đường cộng sản Thiên Chúa giáo” trong khái niệm Utopia của Thomas More (Sir Thomas More (/ m ɔr / 07 Tháng 2 1478 - 06 Tháng 7 năm 1535), được biết đến với Công giáo La Mã như Thánh Thomas More từ năm 1935) 
Thomas More đã sáng tác cuốn tiểu thuyết giả tưởng có tên Utopia, mô tả một xã hội thiên đường cộng sản hữu thần, ai không tin vào Chúa sẽ bị chém đầu.Trong “Utopia xã” với quyền sở hữu đất, sở hữu tư nhân không tồn tại, nam giới và phụ nữ được giáo dục như nhau, một xã hội làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, con người gần như đã biến thành các vị thánh. Marx đã lật ngược xã hội thiên đường cộng sản hữu thần của Thomas More để trở thành xã hội thiên đường cộng sản vô thần của mình, nơi tôn giáo bị triệt tiêu, cá nhân bị triệt tiêu, cái riêng bị triệt tiêu, gia đình bị triệt tiêu, nhà nước bị triệt tiêu, giai cấp bị triệt tiêu, kỷ luật và hiến pháp bị triệt tiêu, tòa án, quân đội, công an, nhà tù, hình phạt bị triệt tiêu, cái ác, cái giả, cái xấu bị triệt tiêu, biện chứng bị triệt tiêu, trần gian bị triệt tiêu … 
Cứ đà này, học thuyết Marx có thể sẽ tiến lên một bước là triệt tiêu con người vì Marx (lấy ý của Hegel) nói rằng lúc xã hội loài người phát triển đến mức tuyệt hảo là thiên đường cộng sản thì lịch sử nhân loại dừng lại, không còn sự tiến hóa nào hiện hữu nữa. Lịch sử theo ý Marx đến đây là điểm kết thúc, điểm chết. Mà lịch sử loài người biến mất thì con người sẽ cư trú trong hư vô hay trong cõi chết ư? Thật là hoang đường và phi lý (!) 
Marx tiếp thu (lấy) khái niệm đấu tranh giai cấp từ nhiều triết gia trước Marx làm của mình, trong đó có ba vị tiền bối được gọi là ba nhà của chủ nghĩa xã hội không tưởng lớn nhất: Saint Simon, Fourier, Owen rồi đuổi cổ chủ nghĩa nhân đạo ra khỏi khái niệm đấu tranh giai cấp ôn hòa (phi bạo lực) của ba ông thầy này. 
Marx đã lấy tư tưởng xã hội chủ nghĩa là một xã hội có nền nền kinh tế thống nhất có kế hoạch trên quy mô một quốc gia và quy mô thế giới, lần đầu tiên do Saint Simon (1760 - 1825) sáng tạo ra để làm của mình, sau khi đã xóa bỏ tính nhân đạo của học thuyết Saint Simon. 
Marx đã lấy học thuyết Charles Fourier (1772 - 1837) làm của mình, trong đó có một phát minh quan trọng nhất của bậc tiền bối này, rằng tiến trình lịch sử xã hội loài người trải qua bốn giai đoạn: mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh. Văn minh là giai đoạn tư bản chủ nghĩa, gia trưởng là xã hội phong kiến, dã man là xã hội chiếm hữu nô lệ và mông muội là xã hội cộng sản nguyên thủy. Ngay cả ý tưởng công xã (Học thuyết của Fourier về một xã hội mới là hệ thống công nghiệp mới hay chủ nghĩa công nghiệp mới theo cách gọi của ông. Đơn vị cơ sở của xã hội mới ấy bắt đầu từ các phalanges (phalănggiơ - một kiểu công xã) của Fourier) Marx cũng lấy làm của mình. Ý tưởng phải thay thế chế độ tư bản một cách triệt để bằng phương pháp hòa bình của Fourier cũng được Marx trưng thu sau khi đã đuổi chủ nghĩa nhân đạo ra khỏi học thuyết Fourier. 
Học thuyết cho rằng chế độ tư hữu là nhân tố chính của sự suy đồi về đạo đức cần phải được tiêu diệt bằng phương pháp hòa bình đã được Marx lấy làm của mình sau khi đã xóa bỏ tình thương con người phi giai cấp của Owen (Robert Owen (1771 - 1858) mà Marx gọi là cải lương, thỏa hiệp, là không triệt để. 
Tư tưởng “Xã hội mới đó vận hành hợp lý đó theo nguyên tắc sở hữu chung và lao động chung, kết hợp lao động trí óc và chân tay, sự phát triển toàn diện của cá nhân, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Xã hội không có giai cấp ấy là một liên minh tự do của các công xã tự quản” của Owen cũng được Marx lấy làm của mình sau khi đã từ bỏ phương pháp thiện căn của Owen để dùng bạo lực xây dựng xã hội mới do Marx chủ trương. 
Học thuyết kinh tế của Marx là bắt nguồn từ hai nhà kinh tế học lớn nhất của chủ nghĩa tư bản là Adam Smith và David Ricardo. 
Adam Smith, FRSE (rửa tội ngày 16 tháng 6 năm 1723, hay 5 tháng 6 năm 1723 trong lịch Julian; mất ngày 17 tháng 7 năm 1790) là nhà kinh tế chính trị học và triết gia đạo đức học lớn người Scotland; là nhân vật mở đường cho phát triển lý luận kinh tế. Bộ sách Bàn về tài sản quốc gia (Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations) đã giúp tạo ra kinh tế học hiện đại và cung cấp một trong những cơ sở hợp lý nổi tiếng nhất của thương mại tự do, chủ nghĩa tư bản, và chủ nghĩa tự do. 
Adam Smith là lý thuyết gia số một đặt nền móng cho kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ông sinh trước Marx 95 năm và 28 năm sau khi ông mất, Marx mới ra đời. Trước Adam Smith, kinh tế phương Tây còn mang đặc thù của nền kinh tế phong kiến tuy đã manh nha nền kinh tế thương mại tư bản tư nhân còn nhỏ lẻ. 
Trước Adam Smith, chủ nghĩa tư bản sơ khai đã có một số nhà kinh tế bàn đến vấn đề tự do kinh tế và tự do thương mại, bàn về các khế ước xã hội trong mối quan hệ giữa tư bản và lao động. Nhưng chính từ Adam Smith lần đầu tiên các lý thuyết về tự do kinh tế, tự do thương mại được hệ thống hóa, điều kiện hóa, xã hội hóa và quốc tế hóa. Đó là những vấn đề sống còn của chủ nghĩa tư bản nhân đạo trong mối quan hệ giữa đạo đức và kinh tế, giữa lý thuyết về giá trị lao động và thị trường tự do tự điều tiết mọi mâu thuẫn lao động và tư bản, về vấn đề chuyên môn hóa sản xuất quốc tế và sự phân công lao động, về nhân tố sản xuất quan trọng hơn nhân tố mậu dịch, về thuyết trọng thương đã vượt qua thuyết trọng nông trong tích lũy tư bản, về “lý thuyết lợi ích tuyệt đối” trong vai trò điều tiết của nhà nước trong kinh doanh quốc tế, về sức lao động là giá trị đầu tiên của nền tảng sản xuất tư bản. 
Vấn đề quan trọng nhất mang tính đạo đức trong kinh tế luận Adam Smith là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giải phóng con người khỏi nô lệ thân xác. Thương nghiệp và công nghiệp thành thị chỉ có thể phát triển khi nó gắn liền với tự do cá nhân, quyền tư hữu tối thượng và pháp lý dân chủ đại nghị. Adam Smith còn khuyến cáo nền kinh tế tư bản rằng kinh tế chỉ có thể phát triển nếu việc trả lương lao động hợp lý trở thành tiêu chuẩn mang tính lịch sử để tiến lên hữu sản hóa giai cấp vô sản. Adam Smith trong kinh tế luận của mình đã coi hợp tác trong cạnh tranh là vấn đề sống còn của xã hội tư bản. 
Marx, từ người học trò trở thành người phản biện học thuyết kinh tế AdamSmith. Marx luôn luôn nói đến duy vật biện chứng và duy vật lịch sử nhưng trong cách hành xử và lập luận của mình, Marx lại là người chủ quan phi biện chứng và phi lịch sử hơn ai hết. Marx áp dụng biện chứng pháp Hegel vào mọi vấn đề để đi đến công thức cứng ngắc và thiếu khoa học là tư bản thì tuyệt đối xấu còn vô sản thì tuyệt đối tốt, rằng tư bản bóc lột dã man vô sản bằng “giá trị thặng dư”, rằng nhất định vô sản sẽ chôn tư bản để xây dựng một nền kinh tế chỉ huy, một nền kinh tế kế họach hóa toàn cầu phi cạnh tranh, một nền kinh tế xóa bỏ hoàn toàn tư hữu…Marx, bằng định kiến cố hữu đã đóng đinh tư bản vào một chỗ “bóc lột dã man” mà không cho nó sự vận động để tự sửa chữa tốt hơn. 
Thực tế đã chứng minh Marx hoàn toàn sai lầm về học thuyết kinh tế duy tâm chủ quan thiếu luận chứng khoa học của mình. Học thuyết kinh tế tự do và nhân đạo của Adam Smith đã chiến thắng học thuyết chôn tư bản của Marx. Chính Marx từng nói: “ Thực tế là thước đo chân lý”. Ngày nay bốn nước cộng sản cuối cùng của thế giới là Trung Quốc, Việt Nam và bước đầu với Cuba và Bắc Triều Tiên đã từ bỏ (và dần dần từ bỏ) kinh tế tập trung, kinh tế phi cạnh tranh, kinh tế bị chính trị hóa, phi tư hữu hóa của Marx để thực thi học thuyết kinh tế tự do và nhân đạo tư bản chủ nghĩa của Adam Smith. 
Nói tóm lại, hầu hết tư tưởng của Marx là lấy từ các học phái trước Marx, sau khi ông đã chối bỏ mọi điều thiện của các bản chính để duy ác hóa chủ nghĩa xã hội rất thiếu lý tính, thiếu lẽ phải của mình, rồi gọi chúng là chủ nghĩa xã hội khoa học. 
4. NHỮNG CÁI SAI CĂN BẢN (SAI GỐC) CỦA HỌC THUYẾT MARX 
Trong các trước tác của Marx - Engels, khái niệm “đấu tranh giai cấp” luôn luôn được đồng nghĩa với khái niệm “ bạo lực cách mạng” với các từ “duy ác” như “ tiêu diệt”, “giết sạch”, “chôn”, “tước đoạt”, “ cướp”... tức là tuyệt đối hóa hành vi giết người, hành vi tước đoạt, cướp bóc của giai cấp này với các giai cấp khác trong công cuộc tiến lên thiên đường cộng sản. Marx chỉ ra rằng lối lên thiên đường duy nhất của giai cấp vô sản chính là địa ngục của giai cấp tư sản. 
Marx trong tuyên ngôn của đảng cộng sản do Engels chắp bút (trích từ “ Thư Viện Marx-engels” trên Internet) đã tuyệt đối hóa CÁI ÁC, coi CÁI ÁC là động lực duy nhất của sự phát triển lịch sử nhân loại, khi ông viết: 
“Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.” 
ĐẤU TRANH GIAI CẤP BẰNG TUYỆT ĐỐI HÓA BẠO LỰC – MỘT HỌC THUYẾT PHI NHÂN 
Đây chính là sự sai lầm hệ trọng nhất trong nhận thức luận của Marx về lịch sử, một sai lầm gốc trong các sai lầm gốc khác nơi Marx (xóa bỏ tư hữu, giá trị thặng dư, chuyên chính vô sản, mô hình phi nhân về con người phi biện chứng, phi lịch sử, phi logic trong xã hội bịa đặt có tên là thiên đường cộng sản...) 
Lịch sử loài người là lịch sử của các cuộc đấu tranh kép (vừa hòa bình vừa bạo lực) giữa văn minh và dã man, giữa cái thiện và cái ác, giữa cái chân và cái giả, giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái vị tha và cái vị kỷ...
Việc tuyệt đối hóa cuộc đấu tranh giai cấp bằng bạo lực - tức sự giết người hay CÁI ÁC là động lực duy nhất của lịch sử tiến hóa nơi con người là một lý giải sai lầm lớn nhất của Marx để biến học thuyết cộng sản của ông thành HỌC THUYẾT DUY ÁC. 
Về phát kiến tai hại này của Marx, trước hết lại bắt đầu từ lời giải thích của thầy ông là triết gia duy tâm Hegel, xin trích: 
“Trong "Lutvich Foiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức", Enghen đã nhắc lại quan điểm của Hêghen (F. Hegel) về sự đối lập giữa thiện và ác và ông đã phân tích như sau: "Hêghen viết: "Người ta tưởng nêu được một chân lí vĩ đại khi nói con người bẩm sinh là thiện, song người ta quên rằng người ta còn nêu được một chân lí vĩ đại hơn nữa với lời nói này: "Con người bẩm sinh là ác". Theo Hêghen, ác là hình thức, trong đó biểu hiện động lực của sự phát triển lịch sử. Thật ra câu nói đó bao hàm hai ý nghĩa: một mặt, mỗi bước tiến mới tất nhiên là một tội ác chống lại trật tự cũ đang suy đồi, nhưng được tập quán thần thánh hoá. Mặt khác, từ khi sự đối lập giữa các giai cấp xuất hiện thì chính những dục vọng xấu xa của con người – lòng tham và sự thèm muốn quyền thế – đã trở thành đòn bẩy cho sự phát triển lịch sử".” (hết trích) 
Qua Engels ta mới biết chính Hegel, một con người luôn vịn vào vào Thượng đế để đi tìm tuyệt đối trong ý niệm, trong xã hội tuyệt hảo do ý niệm tuyệt đối dẫn đường, người hình như vẫn còn tin vào thiện căn con người, lại xúi giục Marx dùng cái ác để giải thích lịch sử của loài người là một lịch sử duy ác, do cái ác làm tiến hóa xã hội con người. Đây là một ngụy lý của thầy trò Hegel- Marx, gây ra sự tai hại vô song về sau cho những hậu duệ dùng học thuyết phi khoa học này để cải tạo thế giới bằng biện pháp duy ác, không còn chỗ cho cái thiện cư trú trong học thuyết Marx. 
Trong triết học Trung Hoa, Mạnh tử (372 trước TL - 298 trước TL) một học phái Nho gia nổi tiếng nhất từng nói: “ Nhân chi sơ tính bản thiện”. Tuân tử (313 trước TL - 238 trước TL) cũng một học phái Nho gia khác sinh sau Mạnh tử 59 năm lại nói ngược rằng: “ Nhân chi sơ tính bản ác”. Từ đó, có nhiều người suy ra rằng Mạnh tử chủ trương thiện còn Tuân tử chủ trương ác. Sở dĩ Tuân tử nói như trên là để cân bằng với quan niệm duy thiện của Mạnh tử, rằng con người sinh ra đã sẵn cả tính thiện và tính ác. Bởi, thiện ác là bản năng tự nhiên tạo hóa ban cho muôn loài. 
Vấn đề DUY ÁC của học thuyết Marx đấu tranh giai cấp bằng bạo lực trong việc giải thích lịch sử loài người là ông đã lấy học thuyết “đấu tranh sinh tồn tàn bạo, đào thải của tự nhiên tàn nhẫn và tồn tại của giống thích ứng với môi trường ác liệt” của Charles Robert Darwin (12 tháng 2, 1809 – 19 tháng 4, 1882) làm thành học thuyết đấu tranh giai cấp bạo lực của mình. 
Darwin sinh trước Marx 9 năm và mất sau Marx một năm. Mặc dù tác phẩm trứ danh nhất của Darwin là “Nguồn gốc các loài” in lần đầu tiên năm 1859, trong khi “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” của Marx –Engels in trước đó 11 năm, tức năm 1848, thì sao lại có chuyện Marx lấy ý tưởng của Darwin? 
“Nguồn gốc các loài” là cuốn sách tổng kết những thành quả của những khám phá, nhìn nhận, ghi chép, suy đoán, kết luận của Darwin trong chuyến đi gần 5 năm, từ 1831 đến 1836, trên hải trình của tàu Beagle vòng quanh thế giới; và ông đã liên tục công bố các bài báo nhỏ về các kết quả nghiên cứu này trên báo để thăm dò phản ứng của các nhà khoa học. Marx đã lấy các ý tưởng của Darwin từ các bài báo này về sự tiến hóa của các loài qua phép thử của cái ác đặng tăng thêm tự tin để ông công bố kết luận gây choáng: lịch sử loài người là lịch sử của cái ác. Chúng ta hãy nghe Engels kể lại: 
“Trên các ấn phẩm của Nguồn gốc, Marx đã tham gia vào các công việc khác. Nhưng khi ông đã có một cơ hội để đọc nó một năm sau đó, đánh giá của nó cũng tương tự như của Engels, người mà ông đã viết trên 19 tháng 12 năm 1860: 

"Trong thời gian thử nghiệm của tôi [bệnh] trong bốn tuần tôi đã đọc tất cả các loại vật. Trong số những người khác, cuốn sách về chọn lọc tự nhiên của Darwin. Mặc dù nó được phát triển một cách thô tiếng Anh, đây là cuốn sách có chứa các nền tảng tự nhiên lịch sử của quan điểm của chúng tôi. " 

Một tháng sau, vào ngày 16 Tháng 1 năm 1861, ông đã viết cho Lassalle trong điều kiện tương tự: 

"Công việc của Darwin là quan trọng nhất và phù hợp với mục đích của tôi ở chỗ nó cung cấp một cơ sở khoa học tự nhiên cho lịch sử đấu tranh giai cấp. Một, tất nhiên, không phải đưa lên với phong cách tiếng Anh vụng về của các đối số. Mặc dù tất cả các thiếu sót của nó, nó là ở đây, lần đầu tiên, 'mục đích luận trong khoa học tự nhiên là không chỉ là một đòn chết, nhưng cũng hợp lý, ý nghĩa của nó được giải thích theo kinh nghiệm." 

BLOG của Đảng xã hội chủ nghĩa thế giới (Mỹ): www.wspus.org

Thứ Hai 16 Tháng Ba, 2009 
(hết trích) 
Chính Engels nói trong bài phát biểu trước mộ Marx trong đám tang của ông này, khẳng định Marx đã tiếp thu học thuyết đấu tranh sinh tồn nơi thực động vật làm học thuyết đấu tranh giai cấp trong xã hội loài người: Giống như Darwin phát hiện ra quy luật của sự tiến hóa tự nhiên đấu tranh sinh tồn, do đó, Marx phát hiện ra quy luật của của sự tiến hóa trong lịch sử nhân loại” 
Darwin và Marx trong việc tuyệt đối hóa cái ác trong sự tiến hóa của tự nhiên và sự tiến hóa của xã hội loài người đã có sai lầm đáng tiếc. 
THIỆN & ÁC là phạm trù của thế giới tự nhiên và dĩ nhiên là của cả xã hội loài người. 
Văn minh Ấn Độ (gần như đồng thời với văn minh Lưỡng Hà, trước văn minh Ai Cập và Hi Lạp) đã theo đạo Bà La Môn với quan niệm Thượng Đế tam vị nhất thể gồm thần sáng tạo Brahma, thấn Ác Shiva và thần Thiện Vishnu. Như vậy, Thiện và Ác chính là hai mặt của sinh diệt có sẵn trong thế giới tự nhiên trước khi con người xuất hiện. Trong thần thoại và trong các tôn giáo của nhân loại từ bình minh của lịch sử đều có thần ác, thần thiện, ông Thiện và ông Ác…Chúa và Phật, Thánh Ala của tiên tri Mohamed, Lão tử và Khổng tử... đều dạy con người hướng thiện và đấu tranh loại trừ cái ác. 
Chỉ có học thuyết sinh vật học của Darwin và học tuyết cộng sản của Marx không có chỗ cho cái thiện cư trú, là hai học thuyết toàn ác, duy ác, tuyệt đối ác...
Thiện Ác gần như là một bản năng tạo hóa ban cho muôn loài từ thực vật, động vật đến con người đều dùng chung quy luật tự nhiên này. Ngay ở trong các loài thực vật, động vật quy luật tiêu diệt nhau (cái ác) để tồn tại và quy luật khoan hòa, bao dung (cái thiện) để cộng sinh hòa trộn vào nhau để cùng sinh tồn là điều không còn phải bàn cãi. Trong rừng cây nhiệt đới năm, sáu tầng mọi loài cây đều tranh nhau vươn lên để độc chiếm ánh sáng mặt trời; tuy nhiên bằng cách nào đấy, chúng vẫn để những kẽ hở cho ánh sáng mặt trời lọt xuống tận các loài cỏ, loài tảo, nấm dưới mặt đất. Đấy phải chăng chính là biểu hiện của tính thiện trong thế giới tự nhiên? 
Có rất nhiều loài cây nhỏ ví như phong lan mọc ký sinh trên các thân cây cổ thụ và chúng biết sống thân thiện, hòa bình với nhau suốt đời, tuy nhiên cũng có loài cây mọc ký sinh như cây si, cây đa, cây đề đã tiêu diệt cây chúng sống nhờ (nhưng loài ký sinh duy ác này rất ít so với các loài ký sinh duy thiện). 
Loài vật, ngay cả các loài ăn thịt sống bên nhau như sư tử, cọp, gấu, chó sói… cũng ít muốn gây chiến tranh với đồng loại và các loài khác giống, trừ trường hợp chúng tranh mồi hay tranh chấp con cái, tranh nhau lãnh thổ…Hầu hết các loài ăn cỏ từ voi, hưu nai, trâu, bò, dê, ngựa… chọn lối sống hòa bình trên đồng cỏ, ít khi dùng bạo lực để tranh nhau nguồn sống. Các loài ăn thịt cũng biết cách ứng xử bao dung với loài ăn cỏ. Chúng chỉ bắt loài ăn cỏ để ăn đủ no chứ không bao giờ tàn sát hàng loạt loài thú ăn cỏ như con người tàn sát đồng loại để trả thù hay để thỏa mãn tính ác. Nhờ có loài ăn thịt sống chung mà loài ăn cỏ thoát chết hàng loạt vì nạn nhân mãn, sinh sản quá nhiều không đủ cỏ để ăn. Loài ăn thịt và loài ăn cỏ ngoài cách giết nhau để làm mồi mà ta gọi là ác, chúng còn biết sống cộng sinh, bao dung nhau, che chở nhau để cùng tồn tại. 
Có loài cá nhỏ chuyên môn sống trong miệng loài cá mập (sát thủ của biển) để sống bằng nghề xỉa răng cho loài cá dữ. Lại có những loài cá nhỏ sống quanh, sống trên lưng loài cá lớn để làm nghề dọn vệ sinh cho bọn ác ngư mà vẫn chung sống hòa bình với nhau từ đời này đến đời khác… 
Hãy nhìn đàn cá voi săn mồi bằng cách dồn các đàn cá nhỏ lại thành một vòng tròn đen đặc; nhưng chúng chỉ ăn đủ no và bao giờ cũng để lại một phần đàn cá nhỏ kia để loài này tồn tại và phát triển. 
Thiên nhiên đã tự cân bằng sinh thái, bảo đảm cho sự tồn tại của muôn loài bằng quy luật thiện ác, quy luật vừa hủy diệt vừa bao dung, vừa tàn phá vừa che chở để muôn loài cộng sinh và phát triển, tránh được sự tự hủy diệt của nạn nhân mãn. 
Rất tiếc, học thuyết tuyệt đối hóa cái ác trong các quy luật tàn bạo của hội chứng móng và vuốt (chữ của Darwin) trong đấu tranh sinh tồn mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, trong sự tàn nhẫn vô lương tâm của tự nhiên khi chọn lọc giống loài…của Darwin là một cái nhìn phiến diện, thiếu tính khoa học. 
Marx đã lấy học thuyết duy ác trong các quy luật tồn tại của thực vật và động vật trong tự nhiên của Darwin áp dụng vào thế giới con người để thành thuyết đấu tranh giai cấp là một sai lầm lớn nhất trong thế giới quan duy ác của ông, tạo ra các xã hội thống trị bằng cái toàn ác, không bao giờ quan tâm đến cái thiện là chủ nghĩa nhân văn đã làm nên nhân loại. 
Stephen William Hawking (là một nhà bác học lỗi lạc, nhà Vật lý người Anh sinh năm 1942. Trong nhiều thập kỉ, ông được coi là ông hoàng vật lý lý thuyết của thế giới. Hawking hiện là giáo sư Lucasian, chức danh dành cho giáo sư toán học của Đại học Cambridge. Từng đảm nhiệm vị trí này là những nhà khoa học xuất chúng như Isaac Newton và Paul Dirac) trong bài: “Lược sử thời gian” viết rằng về già, Darwin đã sám hối vì nhận ra sai lầm của học thuyết vô thần tuyệt đối hóa cái ác trong chọn lọc tự nhiên, trong đấu tranh sinh tồn của sinh vật, như sau: 
“Về già Darwin lại viết: 

“Có một lý lẽ rất mạnh nữa khiến tôi tin ở Thượng đế, đó là lý lẽ lý trí chứ không phải lý lẽ cảm tính. Người ta rất khó, thậm chí hầu như không thể, quan niệm được rằng: cả cái vũ trụ mênh mông và kỳ diệu này, trong đó con người với khả năng nhìn lùi lại quá khứ và hướng về tương lai, lại có thể là kết quả của một sự ngẫu nhiên mù quáng hay một tất yếu. Sau khi suy nghĩ miên man như vậy, tôi tự cảm thấy phải tin rằng có một cội nguồn khởi thủy có trí thông minh tương tự như người, nghĩa là tôi tin có thượng đế. Trong thời gian viết bộ Nguồn gốc các chủng loại, tôi nhớ là tâm trạng của tôi là như vậy. Tuy nhiên qua nhiều diễn biến thăng trầm về sau, niềm tin của tôi không còn được như trước. Đến đây lại nảy sinh một mối hoài nghi: Tôi tự hỏi làm sao có thể tin được rằng linh hồn con người, thoạt đầu không khác gì linh hồn các loài vật hạ đẳng nhất, lại có thể suy luận tới những kết luận bao la như vậy?” 

Darwin không trả lời câu hỏi và kết luận như sau: 

“Tôi không có tham vọng rọi sáng những vấn đề trừu tượng đó. Chúng ta không thể biết nổi nguồn gốc của vạn vật và tôi đành cam nhân mình là người theo chủ trương lý trí hữu hạn”. 
Từ học thuyết đấu tranh giai cấp bằng tuyệt đối hóa sự giết chóc, Marx đã đưa giai cấp vô sản lên thành giai cấp lãnh đạo tuyệt đối bằng chuyên chế độc tài. Đây chính là vấn nạn khổ đau vô tận cho người dân phải sống trong địa ngục chuyên chế vô sản duy ác trong các chế độ cộng sản đã và đang bị cả loài người văn minh lên án.. 
(hết trích) 
XÓA BỎ TƯ HỮU – MARX XÓA BỎ CHÍNH CON NGƯỜI 
Kết luận của Marx: “Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp”, mà khái niệm “đấu tranh” của Marx đồng nghĩa với bạo lực, với cái ác, với sự giết người hàng loạt không hề biết thương xót; đây là một lý giải quá tầm bậy của ông. Lấy cái ác để giải thích sự phát triển của lịch sử nhân loại, Marx chính là một kẻ phi nhân. 
Marx thể hiện sự phi nhân khác của mình khi ông giải thích chính tư hữu (sở hữu) là nguyên nhân gây ra sự phân chia giai cấp trong xã hội, tức là nguyên nhân mọi đau khổ của con người. Trong tuyên ngôn của đảng cộng sản, Marx viết: 
“Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xoá bỏ chế độ tư hữu. 

Nói tóm lại, ông buộc tội chúng tôi là muốn xoá bỏ sở hữu riêng của các ông. Quả thật, đó chính là điều chúng tôi muốn.” 
Khi nghiên cứu tác phẩm “Cộng Hòa” của Platon (như vừa dẫn), Marx thấy Platon nói rằng vì con người có ý thức về tư hữu, sở hữu nên mới sinh ra tranh giành cướp đoạt của nhau; rằng muốn xây dựng một chế độ cộng sản lý tưởng thì phải xóa bỏ tư hữu. Ý tưởng này của Platon đã được các tiền bối của phái chủ nghĩa xã hội không tưởng trước Marx nhắc lại và đưa vào học thuyết giả tưởng của mình, nên Marx nhất quyết xóa bỏ tư hữu nơi con người nếu con người đó bị buộc phải vào sống trong thế giới cộng sản của ông. 
Vả, nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng trước Marx là Charles Fourier từng cho rằng trong xã hội mông muội của loài người (tức xã hội cộng sản nguyên thủy theo cách gọi của Marx) con người chưa từng biết tư hữu về tư liệu sản xuất và công cụ sản xuất, nên Marx coi đây là một bằng chứng của chân lý. 
Marx lại nghiên cứu những bài báo của Lewis H. Morgan, nhà nhân chủng học người Mỹ sinh cùng năm với Marx (1818) và chết trước ông hai năm, từng viết rằng, trong xã hội cộng sản nguyên thủy con người chưa biết tư hữu. Từ đây, Marx tưởng mình đã đầy đủ dẫn chứng nhân chủng học khi ông lấy ý này của Morgan làm căn cứ khoa học của mình. Chúng ta hãy theo dấu Engels để biết Marx bị ảnh hưởng từ Morgan: 
“Dựa trên các kết quả và phát hiện của Lewis H. Morgan (Lewis Henry Morgan (21 tháng 11 1818 - ngày 17 tháng 12 năm 1881) là một nhà nhân chủng học người Mỹ tiên phong và lý thuyết xã hội đã làm việc như một luật sư đường sắt), Friedrich Engels đã phân tích lịch sử nhân loại trong những giai đoạn sớm nhất của nó, luận chứng quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá trình hình thành của xã hội có giai cấp, dựa trên chế độ tư hữu. Ông cũng vạch rõ những đặc trưng của xã hội đó, giải thích sự phát triển của các quan hệ gia đình trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, chỉ ra nguồn gốc và bản chất của Nhà nước, chứng minh sự tất yếu diệt vong của Nhà nước và xã hội có giai cấp nói chung. 

Engels bắt đầu viết cuốn này từ cuối tháng Ba năm 1884, và tới hết tháng Năm năm đó thì hoàn tất. Khi đọc các bản thảo viết tay của Marx, Engels đã tìm thấy một bản tóm tắt cuốn "Xã hội Cổ đại" của L.H. Morgan, nhà khoa học tiến bộ người Mỹ, được Marx ghi trong các năm 1880-1881, có nhiều nhận xét phê phán và luận điểm của chính Marx. 

Sau khi đọc bản tóm tắt, Engels nhận thấy cuốn sách của Morgan đã xác minh quan điểm duy vật lịch sử và các quan điểm về xã hội nguyên thủy của Marx và mình đề xuất, và thấy cần viết một tác phẩm riêng, sử dụng các tài liệu và kết luận của Morgan và Marx.” 
(hết trích) 
Thưa rằng, kết luận của Morgan và Marx khi hai ông cho rằng con người mông muội ăn chung ở chung ngủ chung làm chung (cộng sản nguyên thủy) không biết tư hữu là một kết luận sai lầm đến mức ấu trĩ. 
Tư hữu, sở hữu là bản năng tạo hóa dành cho muôn loài từ cây cỏ, muông thú đến con người. Từ con kiến, con ong, đến con chim, con chuột, con cọp, con sư tử …đều biết sở hữu tổ của mình. Chúng có thể chiến đấu đến chết để bảo vệ tổ, bảo vệ con cái của mình, bảo vệ các con của mình. Ngay cả loài cây, tức là các loài thực vật… đều biết sở hữu vùng ánh sáng, tranh nhau vùng ánh sáng và dùng rễ để tranh nhau các chất màu trong đất. 
Bản năng tư hữu, sở hữu đã có trong cả thế giới khoáng vật, động thực vật, sao đến loài động vật cao cấp là con người dù con người trong thời mông muội (cộng sản nguyên thủy) lại quên đi một bản năng tồn tại là bản năng sở hữu, tư hữu như hai ông mạo danh khoa học kết luận là ông Morgan và Marx là sao? 
Hai đứa bé sinh đôi trong bụng mẹ chưa chào đời còn có bản năng sở hữu, tư hữu khi chúng đá nhau tranh giành không gian chật chội, xin trích: 
“Nếu như bạn không tin thì hãy đến với đoạn video thú vị dưới đây được các nhà nghiên cứu Anh quay lại được. Đáng chú ý của cặp song sinh này chiến đấu với nhau để có chỗ duỗi chân thoải mái trong bụng mẹ vốn đang chật chội. 

"Cuộc chiến" của cặp sinh đôi này xem ra bất phân thắng bại. 

Cảnh quay trong video cho thấy đôi chân của bào thai nhỏ hơn đang duỗi chân ra về phía bào thai to, như thể nó đang rất cố gắng để đẩy chân hoặc đá chân vào người anh chị em mình, mặc dù sự thật, diễn giải này không phải là chắc chắn đang xảy ra giữa các bào thai.

"Nếu bạn đang mang thai sinh đôi thì chúng không thể đứng yên một vị trí nhất định", tiến sĩ Marjorie Greenfield, giám đốc bộ phận sản khoa nói chung và phụ khoa nói riêng tại Đại học Trung tâm y tế ở Cleveland (Luân Đôn, Anh) cho biết.

Greenfield, mẹ của cặp song sinh ban đầu còn tỏ ra do dự, không tin vào mắt mình khi tận mắt chứng kiến video cảnh hai đứa con của mình đá nhau. Greenfield nói rằng: "Hai đứa trẻ đã đá vào bụng tôi, chúng đang đấu đá nhau. Trải nghiệm thú vị này, chỉ bây giờ tôi mới có được". 
Hình ảnh được chụp lại từ video. (Theo ABC news) 
Nếu con ong, con chim, con thú... không có bản năng tư hữu, sở hữu, khi đi kiếm ăn ở những vùng xa tổ của nó, xa hang của nó có khi cả trăm cây số, chắc là nó không thèm quay về, hoặc không còn thiết tha với cái tổ, với lũ con không thuộc sở hữu của nó, thì muôn loài chắc đã bị hủy diệt từ lâu? 
Con người (cũng như cây cỏ muông thú), được tạo hóa ban cho bản năng gốc là bản năng tư hữu (sở hữu). Cái sở hữu đầu tiên của con người là tôi chính là của tôi, thân xác tôi, tay tôi, mắt tôi, tư tưởng của tôi là sở hữu của chính tôi; rồi vợ của tôi, con của tôi, nhà của tôi, đất nước của tôi...Đến ngôn ngữ cũng có động từ, danh từ sở hữu huống nữa là con người. Nếu theo Marx, thử bỏ các từ “của” đi thì cuốn “ Tư bản luận” sẽ thành vô nghĩa. Con người bị Marx xóa đi cái sở hữu, tức là xóa cái tôi, tức xóa chính nó, xóa cá nhân, tức xóa chính con người. 
Đưa con người trở về thời đại hão huyền bịa đặt là cộng sản nguyên thủy để xóa tư hữu, tức là Marx xóa chính con người. Do đó học thuyết Marx là một học thuyết phi nhân. 
CHỦ NGHĨA MARX XÓA BỎ TÔN GIÁO, XÓA BỎ ĐẠO ĐỨC, XÓA BỎ LỊCH SỬ THÀNH VĂN NHÂN LOẠI, XÓA BỎ GIA ĐÌNH, XÓA BỎ TỔ QUỐC, XÓA BỎ NHÀ NƯỚC, XÓA BỎ ĐIỀU THIỆN, XÓA BỎ NHÂN TÍNH, XÓA BỎ PHÉP BIỆN CHỨNG…TỨC MARX MUỐN XÓA BỎ LOÀI NGƯỜI 
Từ học thuyết “tha hóa” và học thuyết “phủ định của phủ định” của Hegel, Marx tiến tới xã hội cộng sản tước bỏ tư pháp, tước bỏ đạo đức, tước bỏ gia đình, tước bỏ xã hội công dân, tước bỏ nhà nước, tước bỏ lịch sử thế giới: 

“C.Mác cũng đã vạch ra quan niệm của Hêghen về tha hoá trong xã hội: “Chẳng hạn như trong triết học pháp quyền của Hêghen, - C.Mác viết -, tư pháp đã bị tước bỏ là đạo đức, đạo đức đã bị tước bỏ là gia đình, gia đình đã bị tước bỏ là xã hội công dân, xã hội công dân đã bị tước bỏ là nhà nước, nhà nước đã bị tước bỏ là lịch sử thế giới. Trong hiện thực thực tế, tư pháp, đạo đức, gia đình, xã hội công dân, nhà nước, v.v. tiếp tục tồn tại như trước, chúng chỉ trở thành những nhân tố, những hình thức sinh tồn và hình thức tồn tại hiện có của con người, những hình thức và nhân tố này nếu cô lập với nhau thì không có sức mạnh, chúng xoá bỏ lẫn nhau, sản sinh lẫn nhau v.v. những nhân tố của vận động””. 
(hết trích) 
Trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, Marx từng tuyên bố những người cộng sản (đảng của giai cấp công nhân) không có tổ quốc: 
“Công nhân không có tổ quốc. Người ta không thể cướp của họ cái mà họ không có. Vì giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc[9], phải tự mình giành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu.” 
Cho nên cờ của các đảng cộng sản trên thế giới đều là cờ búa liềm, cờ của Liên Xô. Từ khi Liên Xô sụp đổ (1991), những người cộng sản trên khắp thế giới đều mồ côi tổ quốc. 
Cũng trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” Marx tuyên bố thẳng thừng những người cộng sản triệt để xóa bỏ các thành tựu nhân văn của quá khứ: 
“Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ.” 
Khi người cộng sản tuyên bố đoạn tuyệt với các tư tưởng kế thừa của quá khứ, tức họ đoạn tuyệt với các tư tưởng nhân văn quá khứ đã làm nên nhân loại; họ xóa bỏ và đoạn tuyệt với các nền văn minh tiền Marx như văn minh Lưỡng Hà, văn minh Ai Cập, văn minh Hi-La, những giá trị nhân bản vô cùng của thời Phục Hưng, thời Ánh Sáng…Và các tư tưởng nhân văn của Cách mạng Pháp với khẩu hiệu Tự do-Bình đẳng-Bác ái cũng bị Marx đoạn tuyệt và xóa bỏ. Như thế này, chính Marx đã xóa sổ học thuyết của ông toàn bắt nguồn từ các dòng tư tưởng xưa cũ. Chính Marx đã khai tử duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của ông vậy. 
Marx và những người cộng sản tuyên bố thẳng thừng họ chỉ có một biện pháp duy ác dùng bạo lực để lật đổ thế giới cũ. Con đường họ tiến lên xây dựng thiên đường cộng sản là con đường đẫm máu các giai cấp hữu sản: 
“Những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu giếm những quan điểm và ý định của mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành. Mặc cho các giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc Cách mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới. 

Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại! 
Marx từng viết về việc xóa bỏ tôn giáo với hai lời tuyên bố rùng rợn như sau: 
“Điều kiện tất yếu đầu tiên cho hạnh phúc của nhân dân là sự bãi bỏ tôn giáo. 
The first requisite for the happiness of the people is the abolition of religion.” 

“Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. 
Religion is the opium of the masses.” 
Tôn giáo là bước phát triển văn hóa lớn nhất của con người từ mông muội đến văn minh. Cứ giả sử như không có Thượng Đế đi chăng nữa, thì sự sáng tạo ra Thượng Đế là sự sáng tạo lớn nhất của con người nhằm thiêng liêng hóa hình ảnh của mình, giúp con người khác xa con vật. Nhờ có tôn giáo, nhờ có Thượng Đế làm chỗ dựa tinh thần, làm cứu cánh giúp con người thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi, thoát khỏi cô đơn, giải tỏa được nỗi sợ chết có thể làm con người điên loạn mà tự hủy diệt mình. Tôn giáo chính là con đường nhân loại cởi bỏ lốt thú vật để khoác lên mình bộ cánh thiên giới bay đến chân trời văn minh hôm nay. Xóa bỏ tôn giáo, khác gì Marx đã xóa bỏ chính con người. 
Ta mới hiểu vì sao các xã hội cộng sản hậu bối của Marx thực thi mệnh lệnh tiêu diệt tôn giáo khủng khiếp nhường vậy. Xin bạn đọc vào công cụ tìm kiếm http://google.com rồi đánh tên tác giả và tác phẩm: “ Tân tử Lăng Mao Trạch Đông ngàn năm công tội” do Thông tấn xã Việt Nam dịch và in năm 2009, sẽ thấy Mao Trạch Đông và cộng sản Trung Hoa phá nát đình chùa miếu mạo nhà thờ trên đất Trung Hoa khủng khiếp ra sao. 
Ở Việt Nam, chính người viết bài này đã mục kích cảnh đảng ra lệnh cho dân quân phá hủy nhà thờ, chùa chiền hồi cải cách ruộng đất tàn bạo vô cùng. Hãy đọc một đoạn nhà văn Đỗ Chu kể lại chiến dịch đảng cộng sản Việt Nam ra lệnh đốt phá các chùa chiền trên núi Yên Tử ra sao: 
“Hỏi các vị bô lão trong vùng mới biết có chỗ là do Tây đốt, có chỗ là do ta đốt, ta đốt phá mới nhiều mới dữ. Một cụ chống gậy lọm khọm bước đến trước tôi kể, chính tôi hồi ấy đã được cấp trên gọi đi đốt phá cả chục ngôi chùa, tượng lớn tượng nhỏ cho trôi sông tuốt. Rồi ông cụ tặc lưỡi cười rất thành thực, thì cái thời nó thế, tôi lúc đó trẻ đang hăng lắm, được phong làm trưởng ban phá hoại huyện.” 
(trích bài “ NĂM THÁNG GỌI VỀ” –ĐỖ CHU báo Văn Nghệ số Tết 2013) 
Xin hãy nghe nhà văn Võ Văn Trực kể như sau: 
“Ở làng tôi, đền chùa miếu mạo, nhà thờ họ, mộ cổ, rừng cổ, cây cổ thụ đã bị phá trụi, không còn gì để phục hồi nữa” 
(Chuyện Làng Ngày Ấy của Võ Văn Trực do NXB Lao Động ấn hành tháng 6 năm 1993) 
Marx viết: “Chế độ cộng sản bãi bỏ những chân lý muôn thưở, nó bãi bỏ tôn giáo và đạo đức thay vì cải cách nó; và nó đi ngược lại tất cả những phát triển lịch sử trước nó” (Marx et Engels – Manifeste du Parti communiste – trang 51. www.librio.net
Có phải vì những lời giáo huấn duy ác này của Marx mà ta thấy trong các chế độ cộng sản cái ác lên ngôi, cái đểu lên ngôi, cái xấu lên ngôi, cái giả lên ngôi, cái dối trá lưu manh lên ngôi hay không? 
Marx chính trị hóa triết học, cách mạng hóa lý thuyết ảo tưởng của mình bằng hai câu nói mà nhiều người khen là tuyệt vời hơn các triết gia khác: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới “…“Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình
Chính khái niệm “ cải tạo thế giới” bằng triết học này của Marx đã góp phần làm hỏng cả triết học lẫn con người. Biến triết học còn nhiều điều chưa hợp lý, chưa khoa học, thậm chí chỉ là những giả định,những ý niệm chủ quan duy tâm của mình thành vũ khí giết người của Marx thì lý thuyết này khác gì tòa án giáo hội thời trung cổ dùng giàn hỏa thiêu để thực thi đức tin tôn giáo độc quyền của nhà thờ. Thực ra, bản chất triết học nói cho cùng chính sự hoài nghi của con người về tồn tại. Không thể có một học phái triết học nào trở thành chân lý tuyệt đối. Lấy thuyết cộng sản của mình làm chân lý tuyệt đối để tiêu diệt các học phái triết học khác, chính Marx mới là ngụy triết học, phản triết học. 
Theo Engels định nghĩa triết học: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Lấy tư duy về tồn tại để cải tạo thế giới là một sự lầm lạc đáng tiếc gây ra cái chết đau thương cho hàng trăm triệu con người là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản do Marx vẽ vời ra để các nhà cách mạng đồ tể thực thi. 
Rất tiếc, 05 tháng trước khi qua đời, Engels đã nhận ra sai lầm của mình và Marx khi ông viết “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, rằng học thuyết dùng cái ác, dùng bạo động để giành chính quyền của giai cấp vô sản đã bị thời đại bỏ qua, đã bị chủ nghĩa tư bản nhân đạo bỏ qua: 
“Ngày 6-3-1895, trong lời nói đầu của cuốn: “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, Engels viết: “Lịch sử chứng tỏ chúng ta từng mắc sai lầm. Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều hơn. Phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi mắt...” (Engels qua đời 5-8-1895) 
Engels còn kể lại có vẻ khôi hài rằng: “Marx nói với Lafargue: «Tôi, Karl Marx, không phải là người Marxiste » – Thư Engels gửi Berstein - 3/11/1882” 
Sự sám hối của Engels hình như đã muộn, học thuyết duy ác của các ông đã bị Lenine bắt cóc đưa về Nga để làm cuộc tàn sát vĩ đại con người có tên là cộng sản. 
Tại quê hương Marx sinh ra, vùng Trèves, người ta có dựng lên một bức tượng của Marx, nhưng người ta có đề hàng chữ ở dưới chân tượng: "Đây là nơi sinh ra Marx, nhưng ở đây không chấp nhận tư tưởng của ông ta..." 
Những nhà xã hội chủ nghĩa dân chủ nhân đạo như Karl Kautsky, Wilhelm Liebknecht, August Bebel, Ferdinand Lassalle... đồng thời với Marx hay sau Marx đã chia tay học thuyết xã hội chủ nghĩa bạo lực của Marx để xây dựng một xã hội chủ nghĩa dân chủ, bác bỏ thuyết đấu tranh giai cấp, bác bỏ chuyên chính vô sản, bác bỏ xóa tư hữu, bác bỏ kinh tế tập trung của Marx, chủ trương đa nguyên kinh tế và đa nguyên chính trị để giúp giai cấp vô sản đấu tranh bằng nghị trường ôn hòa. Những nhà xã hội chủ nghĩa dân chủ nhân đạo trên từng bị Marx, Engels, Lenine nguyền rủa nặng nề nhưng hướng đi của họ là đúng, đã dẫn dắt châu Âu và chủ nghĩa tư bản đến thành công mỹ mãn như hôm nay, chiến thắng hoàn toàn học thuyết dùng cái ác để cải tạo thế giới của Marx. 
Ngày 25 tháng 1 năm 2006, tại thành phố Strasburg (Pháp), Hội đồng Châu Âu (tiếng Anh: Parliamentary Assembly of the Council of Europe; tiếng Pháp: Assemblée parlementaire du Conseil de l'Europe), một cơ quan dân cử của 46 quốc gia châu Âu đã có cuộc họp thường niên (bốn lần trong một năm) bỏ phiếu và thông qua (99 phiếu thuận, 42 phiếu chống) Nghị quyết 1481 (2006) [2] với các điều khoản lên án chủ nghĩa cộng sản và đồng nhất chủ nghĩa này với tội ác chống lại loài người. 
Để kết thúc bài viết, chúng tôi xin trích lời của hai nhà văn quân đội, hai vị cựu đại tá là nhà văn Tân Tử Lăng bên Trung Quốc (hiện đang sống tại Trung Quốc và không bị bắt bớ vì dám nói thật) và nhà văn cựu đại tá Nguyễn Khải (đã mất) của Việt Nam, từng viết như sau: 
Đây là lời của nhà văn đại tá Tân Tử Lăng Trung Quốc: 
“Thiên đường cộng sản chủ nghĩa do chính Mao thiết kế và lãnh đạo xây dựng đã biến thành địa ngục trần gian.” 
(Mao Trạch Đông ngàn năm công tội- Tân Tử Lăng – Thông tấn xã Việt Nam dịch và in 2009) 
“Phải tiến hành một cuộc chuyển đổi ý thức hệ sâu sắc, tuyên bố công khai và rõ ràng trước toàn đảng, toàn dân: từ bỏ những giáo điều “tả” khuynh từ Mác, Ăng-ghen, Lenin, Stalin đến Mao Trạch Đông - những lý luận đã mấy chục năm đưa Trung Quốc vào con đường sai lầm, đem lại cho Trung Quốc nghèo nàn, rối loạn và chuyên chế, đến nay vẫn cản trở và phủ định công cuộc cải cách-mở cửa.” (Tân Tử Lăng- sách đã dẫn) 
Và đây là lời trăn trối lại trước khi chết của nhà văn Việt Nam đại tá Nguyễn Khải: 
“Những gì mà chủ nghĩa cộng sản hứa sẽ thành hiện thực trong tương lai thì cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả loài người….Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống.” 
(trích bài: “ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT” của nhà văn Nguyễn Khải – giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật). 
Viết nhân dịp kỷ niệm 195 năm ngày sinh của Karl Marx (5.5.1818 – 5.5.2013) và kỷ niệm 130 năm ngày mất của ông (14.3.1883- 14.3.2013)
Sài Gòn ngày 10-04-2013 
 

No comments:

Post a Comment