LTS: Nhân bài “Nguyễn Cao Kỳ, con người của thời cuộc” gây sôi nổi dư luận, Đàn Chim Việt đăng lại bài “Cơ hội bằng vàng” của cùng tác giả, Bằng Phong Đặng Văn Âu, viết năm 2006 mà trong bài Tướng Kỳ nêu trên, ông Bằng Phong có dẫn điện thư của Không quân Võ Ý đã nhắc tới. Cuối bài về Nguyễn Cao Kỳ, ông Võ ý cũng đã có ý kiến phản hồi. Mời độc giả theo dõi sau đây.
Lời mở đầu: Nhân đọc tin Việt Nam được chấp nhận vào Tổ chức Mậu dịch Thế giới (WTO), người viết muốn gửi đôi điều đề nghị với ba nhà lãnh đạo cao nhất nước để chỉ ra lối thoát cho bản thân họ. Người viết hy vọng họ sẽ lắng nghe và thi hành, vì những gì sắp được nói đến đều mang lại sự bổ ích cho chính họ, chứ chẳng phải cho một ai khác.
Là một người tị nạn sống lưu vong xa tổ quốc suốt hơn ba thập niên, mặc dù trên danh nghĩa pháp lý đã trở thành công dân của quốc gia tạm dung với đầy đủ các quyền hạn và quyền lợi như bầu cử, ứng cử, hưởng an sinh xã hội, nhưng tâm tư lúc nào cũng hướng về Quê Mẹ, nơi mà đa số nhân dân còn đang sống quá lầm than cơ cực bởi một chế độ man rợ, hà khắc, tôi muốn có đôi điều nói với ba nhà lãnh đạo tối cao đang ảnh hưởng lớn lao trên sinh mệnh của từng người dân trong xứ sở. Đó là các ông:
- Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch Nước,
- Nguyễn Phú Trọng, Chủ Tịch Quốc Hội,
- Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng Chính Phủ.
Từ hàng chục năm qua đã có nhiều nhà thông thái yêu nước thương nòi, những bậc cách mạng lão thành trót hiến trọn đời mình cho lý tưởng xã hội, những thanh niên ấp ủ khát vọng tự do đã dũng cảm đem những điều ích quốc lợi dân để đóng góp với nhà cầm quyền nhưng đều không được đếm xỉa, mà còn có người bị thủ tiêu hoặc bị tù đầy, lăng nhục… Bây giờ một kẻ vô danh tiểu tốt như tôi góp tiếng nói thì chắc chắn sẽ có người chê tôi đem nước đổ lên lá môn hay lên đầu vịt? Tôi có sự suy nghĩ hơi khác thường một chút: Những tiếng nói vì công chính của các vị trước đây cất lên gặp phải thời “hôn quân bạo chúa” trị vì; còn bây giờ tôi linh cảm dường như cuối đường hầm đang le lói một tia hy vọng thì biết đâu lời nói của tôi được ba nhà lãnh đạo đem ra thi hành? Xin minh giải điều linh cảm của tôi. Hình như điềm trời báo hiệu một sự chuyển hóa của đất nước là ba nhà lãnh đạo tối cao không những mang cùng họ Nguyễn mà phương danh của ba vị cũng rất cần thiết và thích hợp để chữa trị chứng bệnh trầm kha của chế độ.
- Minh Triết: Nền chính trị của xứ sở từ nay sẽ xóa bỏ tà thuyết phi nhân, ngoại lai không tưởng để hướng đến một nền minh triết lấy việc nhân nghĩa làm chủ đạo (như lời dạy của Nguyễn Trãi).
- Phú Trọng: là từ bỏ con đường bần cố nghèo nàn và từ nay đặt trọng tâm đến sự phong phú, sung túc, phì nhiêu, dồi dào không những về mặt của cải vật chất mà còn cả về mặt tinh thần, tâm linh, tư tưởng nữa. Con đường độc tôn, độc đảng rồi sẽ nhường bước cho đa nguyên, đa đảng …
- Tấn Dũng: Để thực hiện được hướng đi nêu trên, người lãnh đạo cần phải có sự dũng cảm phi thường. Sự dũng cảm ở đây không giống như kẻ ôm bom tự sát mà là cái dũng của kẻ sám hối dám quyết tâm từ bỏ các dục vọng thấp hèn, các cố tật nói dối kinh niên để trở nên lương thiện.
Thượng Đế hay Đấng Tạo Hóa rất công bằng khi ban hành quy luật: Muôn loài trên trái đất đều phải chịu sự chết, thọ hay yểu tùy theo từng loại. Nhưng vì có trí tuệ, loài người tinh khôn hơn hết mọi loài là dù thể xác không thể trường sinh, nhưng con người có thể làm cho tên tuổi mình trở nên bất tử. Đức Trần Hưng Đạo hiển thánh, được nhân dân Việt Nam sùng bái, thờ phượng chẳng những vì Ngài có công ba lần đánh đuổi quân Nguyên, mà còn vì tấm lòng khoan dung độ lượng của Ngài đã tha thứ cho những con dân trót dại chạy theo giặc; Ngài không tuân theo lời khuyên của cha (Trần Liễu) để gây nên cuộc huynh đệ tương tàn soán đoạt ngôi vua. Trong lịch sử dòng giống Việt không thiếu chi những con người bất tử, được nhân dân mãi mãi tôn thờ vì biết hướng đời mình cho lợi ích quốc dân.
Ba ông đang ở địa vị tột đỉnh, ngồi trên tiền bạc, trên luật pháp, toàn quyền sinh sát trong tay. Nhưng cái mà hiện các ông không có là sự kính trọng của mọi người, vì quyền lực các ông có được là đến từ họng súng, chứ không do sự gửi gấm niềm tin của nhân dân. Tuy nhiên ba ông đang ở vào hoàn cảnh đặc biệt của những kẻ may mắn nhất trần gian là có thể để lại danh thơm muôn thuở mà những nhà lãnh đạo của nước khác không có. Chẳng hạn, Tổng Thống G. W. Bush dù nỗ lực tối đa để mang lại sự thịnh vượng, an ninh và tự do cho nước Mỹ thì đó là điều đương nhiên của vị Tổng Thống quốc gia dân chủ phải làm. Đàng này, ba ông không cần phải nỗ lực nhiều mà chỉ cần thực thi đúng đắn về các quyền tự do, bình đẳng cho dân như trong Hiến Pháp quy định thì toàn thể nhân dân Việt Nam sẽ tri ân đời đời. Ba ông sẽ trở nên bất tử, sẽ được hậu thế tôn thờ. Bằng không, ba ông cứ tiếp tục theo con đường của các vị tiền nhiệm thì e rằng các ông sẽ không ngồi lâu để tận hưởng những gì đang có trong tay mà lại có nguy cơ bản thân bị hãm hại và ô danh kiếp kiếp.
Trước thềm Đại Hội X, trả lời báo chí về sự độc đảng của cộng sản, ông Phạm Thế Duyệt đã nói: “Sự độc đảng của đảng cộng sản có tính cách lịch sử bất khả luận bàn. Vì trong thời kỳ đấu tranh gian khổ chỉ có đảng cộng sản đứng ra lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống Pháp giành độc lập, sao không thấy ai đòi đa nguyên đa đảng?”. Đó là câu trả lời lấy được, bất chấp sự thật lịch sử.
Trong thực tế, ngày nay các ông đã giết chết chủ nghĩa Marx rồi mà không chịu đem chôn, nên hồn ma bóng quế của nó vẫn còn là nỗi ám ảnh khủng khiếp. Nền tảng cơ bản của chủ nghĩa Marx là vô sản chuyên chính, kinh tế chỉ huy thì nay các ông cán bộ lãnh đạo đã trở thành những đại gia giàu nứt đố đổ vách; các ông đang phục hồi quyền tư hữu và chạy theo kinh tế thị trường. Ngoài ra, các ông chưa hề là người đệ tử trung thành với giáo chủ Marx, vì ông này dạy rằng “chỉ có thú vật mới dửng dưng trước nỗi thống khổ của đồng loại và chỉ biết chăm chút cho bộ lông của chúng” thì các ông không những dửng dưng trước nỗi thống khổ của đồng loại mà còn gieo rắc sự oan ức, khổ đau, lầm than cơ cực trên chính đồng bào mình. Do đó, nếu tiếp theo dưới đây tôi nói lên sự thật lịch sử về cộng sản thì sẽ không làm các ông chạnh lòng mà nổi cơn tức giận.
Tổng Bí Thư Trường Chinh Đặng Xuân Khu từng khẳng định: “Đảng (Cộng Sản) dùng bạo lực để Cướp Chính Quyền, thì tất nhiên Đảng phải dùng bạo lực để giữ chính quyền”. Lời nói đó xác nhận thực chất của đảng cộng sản là một đảng cướp, nhưng là một đảng cướp tồi bại hơn tất cả những đảng cướp đời thường. Bởi vì: Đảng cướp đời thường còn biết lấy điều nghĩa khí giang hồ ứng xử với nhau, ân đền oán trả phân minh. Đảng cướp cộng sản không những lấy oán báo ân mà còn giết hại một cách tàn nhẫn cả những người từng nuôi dưỡng mình lúc nghèo khó, kẻ từng nằm gai nếm mật với mình. Khi trong thời kỳ phôi thai, mượn danh nghĩa giành “độc lập, tự do” Đảng tổ chức tuần lễ vàng, tuần lễ bạc để thu góp vốn liếng của nhân dân. Tới khi sắp sửa thắng lợi thì Đảng tổ chức các cuộc đấu tố cải cách ruộng đất với khẩu hiệu “trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ” là một bằng chứng về tội ác trở mặt bội phản, vì giai cấp địa chủ, tư sản như bà Nguyễn thị Năm mới có của cải tiền bạc để nuôi đảng; chứ hạng bần cố nông thì cơm không đủ ăn, lấy gì ra nuôi quân kháng chiến? Thế mà trước khi hành hình, đảng đã dùng đủ mọi cách hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần nạn nhân bằng những lời mắng nhiếc, sỉ nhục độc địa. Cuộc thanh trừng nhóm Nhân Văn Giai Phẩm là một bằng chứng khác về tội ác bất nhân đối với người đồng chí từng cùng nhau trải qua gian nguy. Rêu rao chiêu bài “đoàn kết, đại đoàn kết”, nhưng lại ra lệnh bộ hạ bí mật thủ tiêu các lãnh tụ đảng phái, tôn giáo có cùng mục tiêu đánh đuổi ngoại xâm như Trương Tử Anh, Lý Đông A, Huỳnh Phú Sổ… thì rõ ràng đảng cộng sản giành độc quyền làm tôi tớ cho Nga – Hoa, chứ không phải vì mục đích “độc lập, tự do, hạnh phúc” cho nhân dân Việt Nam. May phúc cho các nhà cách mạng như Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng… đã quy tiên trước khi đảng cộng sản ra đời tại Việt Nam; nếu không, chắc đảng cũng sai bộ hạ thủ tiêu hoặc bán đứng các vị anh hùng này cho thực dân Pháp! Nếu Nguyễn Thái Học và 12 liệt sĩ Quốc Dân Đảng không bị thực dân đưa lên đoạn đầu đài ở Yên Bái thì chắc chắn họ cũng sẽ không tránh khỏi số phận của Trương Tử Anh, Lý Đông A, Huỳnh Phú Sổ…
Từ khi du nhập tà thuyết Karl Marx vào đất nước cho đến ngày hôm nay, đảng cộng sản chỉ có một chủ trương duy nhất: lừa đảo, dối trá, bịp bợm, tráo trở. Kỹ thuật tinh vi đến độ những người thông thái vào hạng bậc nhất như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Nguyễn Khắc Viện, Trần Đại Nghĩa… còn bị mắc lừa, huống chi những thanh niên trẻ trung đầy nhiệt tình yêu nước như Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Hộ… làm sao hiểu nổi sự giảo quyệt của tập đoàn lãnh đạo cộng sản? Cho nên tôi rất thương xót cho những người chân chính yêu chuộng lý tưởng xã hội vì lầm tưởng chủ nghĩa cộng sản đem lại thiên đàng cho hạ giới đến nỗi giờ này bị thân bại danh liệt, đau đớn ngậm mối căm hờn cho đến chết.
Núp dưới chiêu bài “Giải Phóng Dân Tộc”, đảng cộng sản xâm lăng Miền Nam. Khi chiến thắng thì “đoàn quân giải phóng” hành động chẳng khác nào đoàn thổ phỉ thâu tóm trong ba chữ V: “vơ, vét, về”. Sau đó, Đảng chủ trương ngăn sông cấm chợ, đánh tư sản mại bản, cải tạo công thương nghiệp, bất chợt đổi tiền, đuổi dân đi vùng kinh tế mới để chiếm đoạt nhà đất là những vụ cướp của giết người tàn bạo và thô bỉ nhất trong lịch sử giống nòi. Cho đến khi cả nước kiệt quệ, năm 1986 Đảng vội vàng la hoảng “Đổi Mới hay là chết!”. Nhờ sự chịu đựng bền bỉ và óc sáng tạo của dân tộc, đất nước mới có thể lóp ngóp ngoi dậy, đứng lên. Thế mà Đảng chẳng biết xấu hổ, lại đem kể lể những thành tựu “hai mươi năm đổi mới” (1986 – 2006) trong Đại Hội 10 một cách huyênh hoang trơ trẽn!
Người Tầu đô hộ Việt Nam một ngàn năm, nhiều phen bị dân ta đánh đuổi về Tầu. Nhưng ít nhất họ còn để lại cho xứ sở ta một nếp sống có văn hóa: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Đời sau ông bà ta còn đem những tấm gương của Kỷ Tín, Dự Nhượng, Do Vu, Nhan Hồi, Tử Lộ… để dạy dỗ con cháu. Thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam 80 năm, bị nhân dân ta đánh đuổi về bản xứ. Nhưng ít nhất họ còn để lại cái tinh thần Cách Mạng Dân Quyền (Liberté, Égalité, Fraternité – Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái) với những tên tuổi như Montesquieu, Robespierre, Voltaire… mà ngày nay còn được xem như thần tượng. Đảng Cộng Sản thống trị Việt Nam hơn nửa thế kỷ (tính từ 1954 đến 2006) thì để lại một đất nước tan hoang trên mọi phương diện: đạo đức suy đồi, văn hóa ngoại lai tôn thờ cái chủ nghĩa phi nhân và thương yêu đồ tể Staline hơn cha, hơn mẹ, hơn chồng… Lừa đảo, dối trá, ăn cắp, đút lót trở thành nếp sống thường ngày. Mặc dù trong thực tế Đảng đã bỏ con đường vô sản chuyên chính, cho phép quyền tư hữu, nhưng vẫn duy trì đường lối cai trị lưu manh, trí trá nói một đường làm một nẻo. Thủ tướng Phan văn Khải đi chu du nước ngoài, quả quyết với thế giới rằng ở Việt Nam không có tù nhân chính trị, thế mà một ông bác sĩ dịch bài “Thế nào là dân chủ” trên mạng lưới của tòa Đại sứ Hoa Kỳ thì bị nhốt vào xà lim vì tội làm gián điệp!
Hơn nửa thế kỷ qua, Đảng gieo rắc sự sợ hãi lên toàn dân bằng biện pháp khủng bố, đàn áp không nương tay để biến cả một dân tộc kiêu hùng đã dũng cảm đánh đuổi quân ngoại xâm sừng sỏ thành những kẻ hèn hạ cắn răng chịu nhục. Chính sách hộ khẩu là một chủ trương bất nhân làm cho người dân phải sống trong cảnh đói thì đầu gối phải bò. Người tù vì đói quá phải bò xuống đất nhặt từng hạt cơm rơi là do Đảng cố tình sỉ nhục con người. Biểu hiện rõ ràng nhất về cái “HÈN” là một ông Đại tướng được thế giới xưng tụng người Anh Hùng Điện Biên lại cam phận làm một anh “Cai Đẻ”, im thin thít trước những bất công xã hội, viết bài góp ý với Đảng một cách rụt rè, còn vênh váo đóng bộ quân phục trắng mang đầy huy chương trên ngực đi dự Đại Hội ngồi cạnh Lê Đức Anh (kẻ đã dùng Tổng Cục II hãm hại mình) để vỗ tay tán thưởng những bài diễn văn của các “lãnh tụ đàn em” cương quyết theo đuổi chủ nghĩa xã hội đến cùng!
Đảng cộng sản gieo rắc sự sợ hãi vào nhân dân bằng những biện pháp khủng bố, đàn áp để muôn năm trường trị thì chính căn bệnh sợ hãi ấy cũng lây lang sang cho người cầm đầu đảng. Ngày nay dù có lực lượng quân đội, công an phục vụ nhưng Đảng rất sợ hãi người dân. Nếu bảo rằng không sợ thì tại sao Đảng không dám chấp nhận lời thách thức Trưng Cầu Dân Ý của những nhà dân chủ không có một tấc sắt trong tay? Đảng không sợ thì việc gì phải thi hành những biện pháp hèn hạ của côn đồ để đánh đập các lương dân vô tội chỉ muốn xin lại một mảnh đất để cắm dùi sinh sống? Đảng không sợ hãi, tại sao lại bịt miệng bằng biện pháp cắt điện thoại, canh gác gắt gao không cho những nhà dân chủ tiếp xúc với báo chí thế giới?
Nhà văn Dương Thu Hương ra hải ngoại, được hỏi: “Bà mạt sát nhà cầm quyền hăng như vậy, liệu bà có dám về lại nước hay không?”. Bà đáp: “Về chứ! Tôi phải về để ỉa vào mặt những thằng lãnh đạo chứ!”. Quả nhiên, bà về thật và rồi Đảng lại phải thu xếp cho bà ra ngoại quốc một cách êm thắm, chứ không dám động chạm đến cái lông chân của bà. Cái gì đã khiến cho những nhà lãnh đạo chịu nhục để cho một người đàn bà tuột quần ra ngồi trên mặt và thải những chất dư thừa hôi hám trong bao tử, nếu không phải vì miếng ăn. Đảng dùng miếng ăn để làm nhục nhân dân, thì nay Đảng cũng vì miếng ăn mà đành muối mặt chịu nhục, đánh mất đi cái “anh chị” của Đảng cướp khi bị một người đàn bà chân yếu tay mềm miệt thị.
Những đảng cướp đời thường sau khi làm ăn khấm khá thì đổi phong cách, không còn giống như bọn đầu đường xó chợ nữa. Trùm băng đảng Mafia, bố già Don Corleone, đã kêu các con vào và dạy: “Bây giờ đã hết thời đâm thuê, chém mướn rồi. Tụi bay phải đi học cái nghề gì có thế giá một chút, như nghề luật sư chẳng hạn, mà vẫn ăn cướp được”. Đảng đã qua cái thời kỳ ngủ bờ ngủ bụi, nằm hầm nằm hố rồi; bây giờ Đảng ở nhà cao cửa rộng, có bồi bếp phục dịch, miệng nhồm nhoàm sơn hào hải vị, sâm nhung quế phụ thì hãy cố gằng mà hành xử sao cho xứng đáng với cương vị phương diện quốc gia. Không thể học đòi văn minh nửa vời, phần trên thì cổ cồn cà-vạt mà phần dưới thì cứ đóng khố và đi chân đất lấm bùn được. Một ông già 86 tuổi, từng là Viện trưởng Viện Triết Học Mác-Lê, từng làm thầy một số vị lãnh đạo hiện nay, ra nước ngoài nói lên cái sai lầm của chủ nghĩa Marx (những điều cả thế giới đều đã biết) mà khi trở về nước Đảng dùng côn đồ lấy phân người hòa với mắm tôm để tạt vào nhà nạn nhân thì tất nhiên cái chất thối tha bẩn thỉu ấy cũng sẽ dính vào tóc tai, quần áo qúi vị chứ! Bộ qúi vị không ngửi thấy mùi xú uế ấy bốc lên làm ô nhiễm môi trường sinh thái của cả thế giới chăng? Sao lại cứ luôn luôn tự hào “đỉnh cao trí tuệ”?
Tình trạng đất nước hôm nay là thế nào? Tham nhũng tràn lan khắp nơi, từ các ngành xây dựng, kỹ nghệ đến y tế, giáo dục… Nói tóm lại, đất nước đang mắc chứng bệnh thập tử nhất sinh. Hậu quả này là do chủ trương dối trá, lừa đảo, bịp bợm của Đảng Cộng Sản độc quyền hơn nửa thế kỷ qua gây nên. Trong giai đoạn đấu tranh để cướp chính quyền, Đảng giả vờ thắt lưng buộc bụng, nêu lên những lý tưởng cao qúy như công bằng xã hội, làm theo khả năng hưởng theo nhu cầu, không còn cảnh người bóc lột người là để kết nạp người ái quốc. Bây giờ thực tế đánh rơi chiếc mặt nạ của Đảng thì Đảng dùng bả vật chất để cấu kết nhau hầu tồn tại ngày nào hay ngày ấy. Bùn lầy, nước đọng, ẩm thấp là môi trường thuận lợi cho các loài muỗi mòng, rắn rết sinh sản. Cái cơ chế cai trị nhùng nhằng, chồng chéo dùng công an trấn áp tất cả tiếng nói của người dân ngày nay trên đất nước Việt Nam cũng là môi trường thuận lợi để cho tham quan ô lại hoành hành. Chính Đảng cộng sản chủ trương mua quan bán chức đẻ ra tham nhũng, chứ chẳng phải ai khác! Tiếng dân kêu oan ức không được giải quyết, phân xử thì bọn tội phạm cầm quyền lớn nhỏ cứ tha hồ vơ vét, có trừng phạt nào để chúng chùn tay? Cho nên miệng cứ hô hào chống tham nhũng cũng lại là những tuồng bịp bợm, chẳng ai tin.
Gần đây, ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi vô số chỉ thị xuống Bộ Giáo dục và Đào tạo để ra lệnh phải chỉnh đốn lề lối làm việc, chấm dứt nạn bán bằng cấp, đề thi. Vấn đề giáo dục bao gồm ba mặt: Đức, Trí và Thể Dục, chứ không chỉ dạy cho học trò nghề chuyên môn để kiếm cơm và phục vụ hành vi cướp bóc của chế độ. Tôi có thể khẳng định rằng Đảng không thể chấn hưng nền giáo dục được, bởi vì cách cai trị của Đảng rất vô giáo dục. Luật sư Nguyễn văn Đài lái xe ô-tô đến chở hai ông Nguyễn Thanh Giang và Phạm Quế Dương đi Thái Bình để thắp hương trên phần mộ lão tướng Trần Độ nhân ngày giỗ của người quá cố mà Đảng cho công an chặn bắt mang về đồn thẩm vấn và qui cho những tội tày trời mà người ta không hề phạm. Một trong những truyền thống văn hóa tốt đẹp của Việt Nam là “nghĩa tử, nghĩa tận”; huống chi Tướng Trần Độ đã một thời là công thần của chế độ, chứ đâu phải là một viên tướng của Ngụy Quân Miền Nam? Cấm đoán thi hành truyền thống văn hóa của tổ tiên mà đòi chấn hưng đạo đức trong giáo dục là một sự bịp bợm hết sức trắng trợn, thậm chí kẻ khờ khạo nhất thế gian cũng không thể tin nổi!
Ngoài ra, Đảng cướp Cộng sản tệ hại hơn đảng cướp đời thường ở chỗ đảng cướp đời thường không núp đằng sau những danh từ thiêng liêng cao qúy như Tổ Quốc, Dân Tộc, Công Bằng Xã Hội để đi… ăn cướp. Vì vậy, nếu bị đảng cướp đời thường giết thì vong hồn nạn nhân sẽ siêu thoát; nhưng nếu bị Đảng cướp Cộng sản giết thì oan hồn người chết không siêu thoát được vì cứ vấn vương tự hỏi tại sao mình là người yêu Tổ Quốc, yêu Dân Tộc lại bị giết vì tội Phản Quốc, Phản Dân? Những oan hồn ấy lâu nay vất vưởng ở đầu cành ngọn cỏ, cuối thác đầu ghềnh; nay đang quần tụ lại thành khí thiêng sông núi hun đúc tinh thần dũng cảm cho những nhà dân chủ đứng lên đòi hỏi Tự Do. Cho nên, dù Đảng dùng đủ các trò tiểu xảo giảo quyệt đến đâu cũng vô phương ngăn cản nổi ngọn trào đòi quyền sống của nhân dân.
Nhằm trả lời câu đáp của Phạm Thế Duyệt với nhà báo, trên đây tôi chỉ khái quát kể ra vài ba sự kiện lịch sử mà thôi, những điều mà tất cả nhân dân đều biết để các nhà lãnh đạo đừng ôm ấp mãi cái ảo tưởng có công giải phóng dân tộc. Nếu nói theo ngôn ngữ của nền văn minh tin học ngày nay thì một đĩa cứng (hard disk) có khả năng chứa hàng tỉ dữ kiện (data) cũng không cách gì ghi chép hết những tội ác của Đảng Cướp Cộng Sản gieo rắc cho dân tộc Việt Nam từ hơn 70 năm qua. Giả thử thực sự Đảng Cộng Sản có công như các triều đại vua chúa của ta đời trước có công dựng nước, mở nước đi nữa mà về sau đàn hậu duệ bất xứng hư hèn, đam mê tửu sắc thì cũng đều bị thay thế bởi một triều đại khác mà thôi.
Cổ nhân từng nói “túi tham không đáy” để chỉ lòng tham vô lượng của con người; nhưng cổ nhân lại nói “hùm chết để da, người ta chết để tiếng”. Ba ông là lãnh tụ tối cao của đất nước, ở trong lầu son gác tía, ăn toàn cao lương mỹ vị, tiền bạc chìm nổi cả trăm triệu đô-la, có quân đội và công an phục dịch và bảo vệ nhưng chắc chắn ba ông là những người khốn khổ nhất trần gian vì ngày đêm nơm nớp lo sợ, ngờ vực bọn thủ túc trở mặt giết hại mình lúc nào không hay do lòng tham của thuộc cấp, muốn cướp đoạt miếng đỉnh chung béo bở. Ngoài ra, các ông thừa biết quần chúng đều có tâm trạng như bà Dương Thu Hương là muốn “ỉa lên mặt” các ông, nhưng không dám nói ra đấy thôi. Các ông thường cáo buộc những người đòi hỏi tự do dân chủ vào tội âm mưu lật đổ chính quyền. Thử hỏi, nếu các ông là người dân sống dưới chế độ man rợ như hiện nay thì các ông sẽ cam tâm chịu làm thân trâu ngựa suốt đời mãn kiếp hay các ông cũng sẽ đứng lên đạp đổ cái chế độ ấy đi để giành lại quyền con người? Hãy tự hỏi, rồi tự trả lời đi!
Ba ông tỏ ra “hồ hởi” vì các báo cáo của định chế tài chánh thế giới khen ngợi Việt Nam có mức tăng trưởng kinh tế khả quan. Nhưng dân chúng thừa biết mức tăng trưởng ấy là do sự bán tống bán tháo đất đai, tài sản quốc gia; bán rẻ mạt sức lao động công nhân cho tài phiệt ngoại bang, chứ chẳng phải nhờ tài giỏi.
Phao tin hủy bỏ Nghị định 31/CP phản dân chủ để người dân tưởng rằng có sự nới lỏng, nhưng mặt khác thì các ông cho công an lập điếm canh bao vây sự di chuyển của dân. Chắc chắn các ông đều biết chế độ đã đến ngày tàn, sắp đổ đến nơi. Cho nên khi những người bị bắt bớ đòi hỏi ai ký giấy tờ ra lệnh bắt thì nhân viên thừa hành đều trả lời do lệnh miệng của cấp trên. Các ông sợ lưu lại tang chứng để chính quyền tương lai xử tội. Đó là hành động của kẻ vừa cướp vừa run mà dân Bắc Kỳ gọi là “vừa rún, vừa đeo”.
Các ông nay đã giàu có, phung phí tiêu hoang đến ba đời không hết của cải, dưới tay đầy dẫy bọn quân hầu, tại sao các ông khổ sở sống trong cảnh “vừa cướp, vừa run”? Tại sao lâu nay tự hào “chống Mỹ cứu nước”, mà nay mới được họ bôi tên ra khỏi danh sách “quốc gia cần được quan tâm” (CPC) thì mừng như “cha chết sống dậy”? Nếu đối xử với đồng bào mình đàng hoàng tử tế thì việc gì phải sợ sức ép của ngoại bang? Lâu nay Đảng đặt bút ký cam kết tuân hành các điều khoản quốc tế để được gia nhập vào Liên Hiệp Quốc, nhưng vẫn đàn áp, tước đoạt quyền làm người của dân mình. Thế giới dùng lá bài nhân quyền “chiếu lệ” để ép các ông nhượng bộ về nhiều phương diện khác, chứ chẳng phải họ yêu thương gì dân tộc mình. (Người mình không thương dân mình, đàn áp dân như quân xâm lược thì mong gì họ là người dưng nước lã lại thương dân mình?). Nhưng nay các ông đã được vào WTO, các ông không thể tiếp tục lươn lẹo để ăn gian nói dối theo kiểu nói một đằng làm một nẻo nữa, vì kinh tế là đồng tiền, mà đồng tiền liền khúc ruột là huyết mạch. Họ sẽ không còn can thiệp chiếu lệ nữa, mà sẽ thẳng tay bắt khoan, bắt nhặt đến nơi đến chốn bằng những phạt vạ hàng tỉ bạc. Ôi! Như thế là nền Độc Lập của xứ sở tiêu vong, núi xương sông máu của nhân dân ta hóa thành vô ích!
Phàm là người ở cương vị lãnh đạo phải hiểu sâu sắc ba chữ: Thời, Thế, Cơ. Thời bưng bít sự thật, thông tin một chiều đã qua rồi. Nếu cố gắng bít đầu này, sự thật sẽ phồng ra đầu kia. Khoác lác, huyênh hoang chẳng còn ai tin. Các ông nên tập nói Thật. Thế cũng yếu xìu. Xưa kia còn Nga, còn Tầu trong cùng băng đảng với nhau để lúc áp vào Tầu, lúc dựa vào Nga. Nay như chiếc bách giữ dòng, nếu không khéo lèo lái thì cả nước (kể cả các ông) sẽ đi làm đầy tớ cho ngoại bang thôi. Quốc gia đang đứng trước ngưỡng cửa hy vọng sẽ được phát triển về kinh tế (dân giầu), nhưng nước sẽ không mạnh nếu các ông tiếp tục bách hại tôn giáo và quyền sống của công dân. Các ông giàu có thiên triệu, nhưng chết sẽ không mang đi được xu nào. Thế thì tại sao đang ở cương vị đứng đầu cả nước lại không biết làm lịch sử để lưu lại tiếng thơm muôn thuở? Hơn ai hết, cái chế độ của các ông sẽ tiêu vong, nên mới sợ hãi vẩn vơ. Thấy trước sự việc sẽ đến mà không hành động, cứ theo nếp cũ thi hành (khủng bố, đàn áp) để kéo dài sự vơ vét được ngày nào hay ngày nấy, rồi sẽ mất tất cả. Nếu các ông mang lại tự do, hạnh phúc cho dân thì dù các ông muốn cáo quan về hưu dưỡng, nhân dân cũng van nài các ông ở lại.
Đây là cơ hội bằng vàng để làm rạng danh dòng họ Nguyễn của các ông. Xưa kia các bậc sinh thành của qúi ông chắc chắn ấp ủ hoài bão nào đó nên mới đặt tên cho các ông là: Minh Triết, Phú Trọng và Tấn Dũng. Chẳng lẽ mang những cái tên đẹp đẽ như vậy mà không biết làm điều tốt đẹp để rạng rỡ tổ tông? Chẳng lẽ đang ngồi ở địa vị cao ngất ngưỡng như thế lại hành xử như phường lưu manh, lừa đảo, dối trả để ngay chính con cái cũng khinh khi?
Tài từ điện ảnh Lê Vân đã mở đuờng khai lối cho các ông bằng tác phẩm “Yêu Và Sống”, bạch hóa SỰ THẬT (dù xấu, dù tốt) của đời mình cho thiên hạ nhìn thấy. Đó là sự dũng cảm đáng kính trọng vì dám bày tỏ sự sám hối để thoát ra khỏi sự dằn vặt trong tâm hồn. Các ông nên noi gương người phụ nữ ấy. Các ông sẽ lấy được sự kính trọng của quốc dân, nếu biết sám hối, dám nói Sự Thật (lời nói đi đôi với việc làm) thì toàn dân sẽ chung sức, chung lòng tiếp tay với các ông tiêu diệt kẻ NỘI THÙ. Khi xưa, các ông thường nhật tụng cái câu “Khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” là nhờ biết vận dụng lòng dân khiến họ hy sinh đổ xương máu. Nay các ông nên nghe lời khuyên của tôi, hãy quay về với nhân dân, bỏ đi thói bịp bợm “xã hội chủ nghĩa” thì tên tuổi các ông sẽ thơm lừng trong sử xanh.
Nếu các ông nghe lời khuyên nhủ của tôi (một người cao tuổi hơn mỗi ông) thì mai này nếu có du hành ra ngoại quốc như Phan văn Khải sẽ được đồng bào sinh sống ở nước ngoài trải thảm đỏ đón tiếp linh đình, chứ không phải chui rúc đi cửa hậu như người tiền nhiệm. Đừng nên bắt chước ông Võ văn Kiệt, khi làm Thù Tướng thì ban hành Nghị định 31/CP, rồi khi về vườn lại bày đặt viết bài góp ý với Đại Hội để xây dựng nền dân chủ. Hơn nữa, sau đó chắc chắn sẽ không có Đại Hội 11 nữa đâu mà hòng góp ý. Hãy thức thời như kẻ có trí tuệ, hãy bắt chước sự dũng cảm như tài tử Lê Vân thôi (không đòi hỏi gì hơn), hãy biết sám hối để dám nói điều trung thực, tên tuổi các ông sẽ thơm lừng trong sử xanh (nhắc lại lần nữa cho nhớ) và có rất nhiều cơ may được dân chúng tạc tượng để thờ. Bảo đảm bằng mạng sống với các ông rằng khi chế độ sụp đổ, thành phố mang tên Hồ Chí Minh sẽ trở lại Sài-Gòn và nấm mồ của ông Hồ sẽ không còn nằm ở quảng trường Ba Đình nữa! Giống như Leningrad trở lại St Petersburg vậy.
Vài dòng vắn tắt, mong rằng nói ít hiểu nhiều để mang lại lợi ích cho chính bản thân qúi ông. Còn chuyện Đất Nước quá lớn lao, xin nhường lời lại cho các bậc thức giả tài cao đức trọng. Tôi chỉ là thằng dân đen thô lậu, nhưng cũng thầu hiểu được đạo lý của Trời: Biết mà không nói là bất nhân, nói mà không nói hết là bất nghĩa. Mong rằng những lời nói chân thật của tôi vể Đảng Cộng Sản không làm các ông phật lòng.
Trân trọng kính chào qúi ông,
© Bằng Phong Đặng văn Âu
http://www.danchimviet.info/archives/16911/c%C6%A1-h%E1%BB%99i-b%E1%BA%B1ng-vang/2010/08
No comments:
Post a Comment