Wednesday, 26 September 2012

Xuân Diệu – Huy Cận với Tự lực Văn đoàn

9-2012
Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ (1)
[Bài phát biểu tại Hội thảo về Tự lực văn đoàn tại Cẩm Giàng, Hải Dương ngày 9/4/2008]
Tự lực văn đoàn được thành lập vào ngày 2-3-1933 bởi nhóm làm báo Phong hóa mà theo Xuân Diệu và Huy Cận gồm bảy người: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu) và họa sỹ Nguyễn Gia Trí (2) với Nhất Linh làm Giám đốc, có trụ sở tại 80 Grand-Bouddha (tức Quán Thánh) Hà Nội (điều kỳ khôi là Tự lực văn đoàn do báo Phong hóa “đẻ” ra nhưng đứa con ấy lại mang sứ mệnh định hướng tồn tại cho chính kẻ đã sinh ra mình!). Nhóm này chủ trương “Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài… để làm giàu thêm văn sản trong nước”, “Ca tụng những nét hay, vẻ đẹp của nước nhà mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả, quí phái” và nhất là “Trọng tự do cá nhân”. Con số 7 gắn với mục đích văn chương này gợi nhớ tới Pléiade gồm bảy nhà thơ của Pháp thế kỷ XVI do Ronsard và Du Bellay cầm chịch nhưng Tự lực văn đoàn chỉ có thể được coi là “bản sao” của Thất tinh Pháp với sự gia nhập của Xuân Diệu. “Và từ đây chúng ta đã có Xuân Diệu”, lời reo vui ấy của Thế Lữ trong Tựa Thơ thơ cũng chính là sự hoan nghênh nhiệt liệt của nhóm Tự Lực dành cho chàng thi sĩ “hiền hậu và say mê” được khám phá bởi chính họ.
Quả vậy, Xuân Diệu ra mắt công chúng với Với bàn tay ấy in trên báo Phong hóa năm 1935 khi còn là cậu học sinh Lycée (trung học) Khải Định và Thế Lữ chính là người đã có “con mắt xanh” phát hiện ra và hơn thế nữa hết lòng tuyên truyền cho tài năng ấy.Giở lại trang thư của tác giả Nhớ rừng gửi Xuân Diệu từ 1936, ta có thể đọc: “Lúc nào nghĩ đến anh, hay nói đến anh trước mặt bạn hữu tôi, tôi đều thấy vui vẻ sung sướng như nghĩ đến, nói đến một thứ tài trong trẻo và có hy vọng rất nhiều. Nhiều lần tôi đọc thơ anh cho người khác nghe để giảng dẫn cho họ thấy những tình cảm rất tươi thắm mà chưa nhà thi sĩ Việt Nam nào phô diễn ra được. Tôi tin ở tài anh lắm và lúc nào cũng mong được đọc thơ anh gửi ra”. Rồi “Thấy anh được thưởng giải nhất về Pháp văn ở Concours Général (giải toàn Đông Dương mà hai năm sau, 1938, Huy Cận cũng đoạt được – CHHV), tôi rất sung sướng, nhưng không lấy gì làm lạ. Xuân Diệu giỏi hơn các bạn học về văn chương là một việc dĩ nhiên rồi. Tôi mong cho công nghiệp trước tác của anh sau này cũng rực rỡ như thế”. Mong muốn ấy, hay sự “đặt cược” vào tương lai nghệ thuật của Xuân Diệu còn được Thế Lữ công khai trên mặt báo. Trong Một nhà thi sĩ mới – Xuân Diệu đăng trên Ngày nay số Mùa Xuân 1957, thi nhân họ Nguyễn quả quyết: “Sự cảm động dồi dào và quý báu của ông còn cho chúng ta thấy nhiều hứng vị của cái chân tài đặc biệt ấy. Tôi mong rằng sẽ được dịp nói đến thơ Xuân Diệu nhiều hơn, để lại được ca tụng nhà thi sĩ của tuổi xuân, của lòng yêu và của ánh sáng”. Song Kim, bạn nghề sân khấu và bạn đời của Thế Lữ, nhớ lại sau sự kiện này mỗi khi có người thắc mắc sao ông không làm thơ nữa mà lại quay về với kịch thì Thế Lữ không một chút ngần ngừ: “Vì đã có Xuân Diệu!” (3). Như thế “chúa rừng Thơ Mới” thoạt kỳ thủy giờ đã hết phải ngậm ngùi “thời oanh liệt nay còn đâu” vì đã tìm ra được kẻ xứng đáng kế tục mình trong công cuộc chinh phục hoàn toàn chốn “thi lâm” đất Việt. Ôi, những tình cảm đẹp đẽ và đầy ánh sáng như thế của bậc đàn anh đối với người đến sau trong làng văn có còn lặp lại được ru! Không chỉ dừng lại đấy, Thế Lữ “chộp” lấy “tài trong trẻo và có hy vọng rất nhiều” ấy để gây thanh thế cho Tự Lực ngay khi chàng vừa đỗ Bac (Tú tài) vào tháng 6/1937 với lời mời gọi thiết tha: “Anh Xuân Diệu. Anh có thể ra ngay Hà Nội được không? Ra để liệu tìm cách sống ở đây, nghĩa là để lăn lóc vất vả cùng với bạn hữu”. Và dường như để khẳng định cái “nghiệp” văn bút, ông tiếp: “viết bài” “kiếm ăn” được ít, nhưng có lẽ đó là thứ công việc hợp với chúng ta hơn”. “Được lời như cởi tấm lòng”, Xuân Diệu từ Huế ra ngay Hà Nội và xắn tay viết cho báo Ngày nay, tờ báo duy nhất của Tự lực văn đoàn sau khi báo Phong hóa bị đóng cửa vào năm 1936 (4) và năm sau, 1938, sau khi Thơ thơ được “trình làng” đã chính thức “xe duyên” cùng thể chế văn chương này với tư cách là thành viên thứ Tám (5). Đáng chú ý là sự nhiệt tình, cái sốt sắng ấy của Tự Lực dành cho Xuân Diệu cũng là tình cảm chung của nhiều nhóm thi nhân cùng thời và thi sĩ họ Ngô trên thực tế đã trở thành đối tượng “giành giật” của các nhóm đó. Chính Hàn Mặc Tử đã bàn với Chế Lan Viên ngay từ tháng 1/1938 là mời cho bằng được Xuân Diệu để lập một Thi Xã tên là Hoàng Anh Tao Đàn với mục đích “nâng cao trình độ thơ mới và tuyển trạch nhân tài”. Cái Thi Xã ấy của “ba chàng ngự lâm pháo thủ” xứ Bình Định mãi mãi là dự định vì bản thân Chế đã cảm nhận được sự gắn bó của Xuân Diệu với Thất tinh Hà Nội nên việc không thành và vì vậy thi sĩ họ Hàn lấy làm “tiếc lắm”. Cũng cần nhắc lại rằng Tự Tự lực văn đoàn, ngoài các báo Phong hóaNgày nay, còn sở hữu Đời Nay, một nhà xuất bản lấy “Tìm tòi những nhà văn có giá trị, khuyến khích họ, làm cho nhà văn và tác phẩm được nhiều người biết đến” làm phương châm. Vì thế có gì đáng ngạc nhiên khi Thơ thơ, “cụm đầu mùa” của Xuân Diệu, là do Đời Nay ấn hành. Cũng như vậy, khi tập thơ được Đời Nay quảng cáo đúng dịp Noel 1938 với những tung hô có thể nói chưa từng có trong lịch sử xuất bản: “Một ngày trong văn học sử Việt Nam, ngày ra tập thơ đầu của Xuân Diệu – “Một thiên tài sớm lộ” – Chỉ có nhà thơ đó hiểu ta và gần ta nhất – Quyển sách đẹp nhất từ trước đến nay”. Ngược lại, chẳng có gì là lạ khi Xuân Diệu đề tặng các thành viên của “gia đình văn chương” của mình những bài thơ khoái cảm nhất của ông: Cảm xúc tặng Thế Lữ, Đây mùa thu tới tặng Nhất Linh, Đi  thuyền tặng Khái Hưng, Vô biên tặng Hoàng Đạo, Nhị hồ tặng Thạch Lam, Giới thiệu tặng Tú Mỡ, Đơn sơ tặng Nguyễn Gia Trí. Thế nhưng có người vồ lấy cái tiêu đề ấy, những lời đề tặng ấy để nói Xuân Diệu là người cạn nghĩa cạn tình khi “cạo hẳn” dòng chữ Tự lực văn đoàn trong Thơ thơ in lần thứ hai và những lời đề tặng Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo trong những ấn phẩm sau này của ông. Thực ra, ai nói như vậy không phải là người làm nghiên cứu đến nơi đến chốn. Thực ra, bên cạnh Tự lực văn đoàn, Xuân Diệu đã có Huy Cận.
Vốn vô cùng mê say Với bàn tay ấy, Huy Cận chỉ có thể mừng rỡ được gặp thi nhân cùng quê Hà Tĩnh hơn mình hai lớp trong buổi tựu trường của Lycée Khải Định (Quốc học cũ) tháng 9/1936. Ngay lập tức hai hồn thơ gắn với nhau như định mệnh để rồi có những dự định riêng mãi mãi. Một trong những dự định ấy là xuất bản các tác phẩm của hai người bằng tiền túi của mình. “Huy Xuân” như một nhà xuất bản đã ra đời như thế vào cuối năm 1939 ngay sau khi Huy Cận vào học Cao đẳng Canh nông với nguồn tài chính là nhuận bút viết báo của Xuân và học bổng hạn hẹp của Huy. Và sản phẩm đầu tiên của cái “Nhà” ấy lại là Thơ thơ. Lần tái bản này, quả thực không còn dòng chữ “Tự lực văn đoàn” nữa. Có một sự thật hiển nhiên nhưng lại ít người biết là Đời Nay độc quyền xuất bản các tác phẩm của thành viên Tự lực văn đoàn hay nói cách khác, một khi đã mang danh thành viên của Nhóm thì tác phẩm không thể in ở nhà xuất bản khác.  Vì vậy trước khi thực hiện dự định của mình, đôi bạn Huy – Xuân đã rủ nhau đến gặp Ban trị sự Đời Nay để có được sự thông cảm thì được nhũn nhặn trả lời rằng việc các ông tái bản Thơ thơ ở nơi khác dĩ nhiên là quyền của các ông nhưng trong trường hợp đó đừng để Tự lực văn đoàn vào sách vì lý lẽ đã rõ. Vậy là vẹn cả đôi bề. Cũng phải nói ngay rằng Thơ thơ là ấn phẩm duy nhất của “Huy Xuân” vì hai dự định khác là xuất bản Tây sương ký do Nhượng Tống dịch (đã giả trước nhuận bút) và tái bản Phấn thông vàng đã không thành, đơn giản là vì ngay sau Tết 1940, Xuân Diệu đã rời Hà Nội vào Mỹ Tho làm Tham tá nhà Đoan (douanne – tiếng Pháp –  là quan thuế) và năm sau bản thảo của Nhượng Tống đã bị chủ Nhà xuất bản Tân Việt lừa lấy mất! Điều đáng nói ở đây là thái độ “làm ngơ” đầy thông cảm của các thành viên còn lại trong Nhóm bởi họ quá yêu Xuân Diệu cùng bạn chàng, Huy Cận. Phải nói các thủ lĩnh của Tự lực văn đoàn rất có cảm tình với Huy Cận dĩ nhiên và trước hết là do tài thơ của họ Cù vì khi  đăng Chiều xưa, thi phẩm đầu tiên của ông cùng một khung với bài Cảm xúc của Xuân Diệu trên Ngày nay số Tết năm 1938, họ vẫn chưa biết Xuân Diệu và Huy Cận đã là một đôi bạn tri kỷ. Thực vậy, nhận được bài thơ của Huy Cận gửi từ Huế ra, Xuân Diệu lại không làm cái việc “lăng-xê” bạn mình như người đời thường làm bằng cách cầm bài thơ ấy đến gặp Nhất Linh hay Thế Lữ là người phụ trách mục thơ của báo mà lại gửi bằng bưu điện đến. Vậy là, chỉ sau khi Huy Cận đã được “làng” Tự Lực “duyệt” với bài Chiều xưa rồi, nhân đầu năm mới Xuân Diệu mới đưa “người thi sĩ lành như suối nước ngọt, hiền như cái lá xanh” lần đầu tiên ra đất ngàn năm văn vật và cũng là lần đầu thăm đất Bắc, đến 80 Quán Thánh để chào các thành viên của cái Văn Đoàn “khét tiếng” đấu tranh cho một nền văn chương mới gắn với tự do cá nhân và đời thường bình dân ấy. Đến chào theo đúng nghĩa đen của từ này vì Huy Cận không mang theo bài thơ mới nào hết. Và Huy Cận đã may mắn gặp được tất cả, đặc biệt Nhất Linh và Thế Lữ mà ông đã từng đọc và học rất nhiều. Ngay khi mới gặp chàng Huy – cha tôi bồi hồi nhớ lại – Nhất Linh hạ ngay: “Bài Chiều xưa của anh hay lắm, rất cổ mà lại rất mới”. Và như để chứng minh cái tâm đắc của mình, Nhất Linh đọc một hơi bài thơ ấy trước sự ngỡ ngàng của tác giả rồi nói rằng Huy Cận cứ gửi thơ ra là Ngày nay sẽ đăng. Rõ là một cú “đúp” thành công của thi nhân họ Cù: không những ông được vị thủ lĩnh tao đàn hoan nghênh nhiệt liệt mà thơ của mình từ đây không sợ không có “đầu ra”! Không nghi ngờ gì nữa, thái độ nể phục ấy của vị chánh chủ khảo Giải thưởng Tự lực văn đoàn có giá trị như vòng nguyệt quế đầu tiên mà Huy Cận nhận được trong đời thơ của mình. Sau này, khi ở Sài Gòn, Nhất Linh còn khẳng định rằng “về lục bát, Huy Cận là hậu duệ của Nguyễn Du!”. Khái Hưng, Tú Mỡ, Hoàng Đạo, Thạch Lam và Nguyễn Gia Trí cũng chỉ có thể chia sẻ quan điểm của “thủ lĩnh” Nguyễn. Đặc biệt Khái Hưng, cũng như Nhất Linh, rất đề cao thơ Huy Cận. Ông còn nói với Nguyễn Hữu Đang lúc đó hoạt động trong Hội Truyền bá Quốc ngữ : “Huy Cận hay từng bài, từng câu, từng chữ”. Thế Lữ thì lại trách Xuân Diệu sao không đưa bài thơ ấy trực tiếp cho ông mà lại vòng vèo thế. “Là vì – Xuân Diệu đáp – tôi muốn xem giá trị thật của bài thơ thế nào chứ tự tôi đưa đến e mất khách quan”. Ngẫm lại, quả thi nhân họ Ngô ngay từ còn măng tơ đã là một bậc thầy trong đối nhân xử thế trên căn bản biết mình, biết bạn và biết người. Là kẻ “tri âm”, Xuân Diệu muốn bạn mình “hữu xạ tự nhiên hương”, hay mượn cách nói thời thượng, muốn Tự lực văn đoàn “tâm phục khẩu phục”. Cái tâm của Lưu Bình đối với Dương Lễ ấy của chàng Xuân dường như đã thấu tới Ông Trời nên vô tình mà như hữu ý sự “trình làng” của chàng Huy trên Ngày nay lại được xếp cặp với chàng Xuân. Như thể Tự lực văn đoàn đã tiên liệu “cỗ song mã Huy – Xuân”, ấy là cách đưa Thơ Mới đến với nhân gian một cách lộng lẫy nhất!
Kỳ vọng của Xuân Diệu nơi Huy Cận đã được đền đáp: Lửa thiêng đã được Đời Nay cho ra mắt bạn đọc vào năm 1940 với 3000 bản, một số lượng vào loại kỷ lục thời đó. Hơn thế nữa, điều này mới là quan trọng, Tự lực văn đoàn quyết định kết nạp thi sĩ họ Cù và lịch sử văn chương Việt Nam lẽ ra biết tới thành viên thứ Chín của Tao đàn ấy nếu không có những biến cố chính trị xảy ra gắn liền với cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II. Thực vậy, sự nuối tiếc của Huy Cận vì đã không kịp trở thành thành viên chính thức của Tự lực văn đoàn không phải đợi đến mãi sau này mới được cha tôi thổ lộ với tôi mà đã bộc lộ từ lâu, ở dòng chữ “trong Tự lực văn đoàn” do chính tay ông viết bên cạnh tên mình trong tờ quảng cáo Nhà xuất bản Đời Nay in năm 1941, trong đó, ngoài các thành viên của Nhóm và Huy Cận ra còn có Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Nguyên Hồng, Nguyễn Khắc Mẫn, Đoàn Phú Tứ, Trọng Lang, Anh Thơ (đúng ra là Cô Anh Thơ), Mạnh Phú Tư cùng ảnh chân dung của họ. Cái “tình cảm gia đình” của Tự Lực dành cho chàng thi sĩ quán sông La ấy có thể cảm nhận được rất rõ trong thư của Khái Hưng ngay sau khi thi sĩ họ Ngô khăn gói vào Mỹ Tho: “Anh đi Nam, chúng tôi thấy thiếu anh quá. Nói thực đấy, không khách sáo đâu. Nhất những hôm hội họp ở nhà anh Tam ai ai cũng bảo: “Thiếu có Xuân Diệu”. Nhưng có người tiếp luôn: “Đã có Huy Cận ăn hộ cả hai người. Huy Cận, ai cũng coi như một nửa của linh hồn anh!”. Rồi chính tác giả của Tiêu Sơn tráng sĩ đã cùng với Nhất Linh, Thạch Lam và họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung dẫn Huy Cận đi thăm chùa Tây Phương và chùa Thầy nhằm khẳng định lòng tự hào dân tộc vốn là động lực của Tự lực văn đoàn trong cuộc đấu tranh chống lại chính sách nô lệ của Pháp. Mặt khác cũng rất có thể khi tổ chức những cuộc du ngoạn đó các thành viên của Tự lực văn đoàn muốn thấy một Huy Cận Đường thi chuyển hứng mạnh hơn nữa sang văn hóa của cha ông. Bản thân bố tôi cũng thừa nhận rằng tứ của bài Các vị La Hán chùa Tây Phương đã manh nha từ dạo ấy. Và anh em nhà Nguyễn Tường trên thực tế đã “gia đình hóa” tình bằng hữu, đồng nghiệp bằng cách thường xuyên tổ chức cho các thành viên của Văn Đoàn cũng như các cộng tác viên thân thiết nghỉ ngơi, thư giãn tại trại của thân mẫu các ông là bà Thông Nhu ở Cẩm Giàng, Hải Dương. Song Kim vẫn nhớ như in những ngày vui ấy: Không cứ ngày lễ, Tết, bất cứ lúc nào rảnh việc ở báo Phong hóa, Ngày nay là anh Tam lại kéo anh em trong Tự lực văn đoàn và một số bằng hữu khác về chơi ở trại của mẹ anh cạnh ga xép Cẩm Giàng. Bà cụ Thông Nhu ăn mặc như các bà khá giả ở Hà Nội, áo cài cúc, quý anh em lắm, dọn đủ các món ăn. Tôi nhớ anh Xuân Diệu rất hay về, ăn rất khỏe, có lần ăn một lúc hai cái bánh chưng. Ai thích nghỉ thì nghỉ nhưng rốt cuộc mọi người lại quay vào nói chuyện văn nghệ. Trại Cẩm Giàng quả thực là tổ ấm của Tự lực văn đoàn” Trong hồi ký của mình, Huy Cận cũng kể: “Có một Tết Nhất Linh và Thạch Lam đã rủ anh Xuân Diệu và tôi về ăn Tết ở Cẩm Giàng (Hải Dương), nơi bà cụ của hai anh vẫn ở và sinh sống từ ngày ông cụ thân sinh của các anh còn làm quan ở huyện. Đêm giao thừa chúng tôi thức để đi bẻ lộc trong vườn và sau khi ăn bát chè đậu xanh giữa phút giao thừa thì chúng tôi trải chiếu ngủ trên ổ rơm rất ấm và thỉnh thoảng ngâm thơ Thế Lữ “Thuở ấy đượm màu sương gió biếc – Trời mây huyền ảo đắm hồn thơ – Cây im ỉm bóng um tùm lá – Sông thẳm nguồn sâu nước đợi chò”(7). Để nói trong thực tế, Huy Cận đã thuộc về Tự lực văn đoàn và cho đến tận hôm nay cha tôi vẫn dùng những lời âu yếm nhất để nói về thực tại đó.
Tình thân thiết đã như chân tay thì chỉ còn gượng cười khỏa lấp cái sầu ly biệt. Bát tiên quá… chén là cái cười gượng ấy của các thành viên của Nhóm trong giờ phút chia tay với Xuân Diệu vừa được bổ làm Tham tá nhà Đoan tại Mỹ Tho. Trong tay tôi là một tờ giấy dó lụa với hoa văn dập nổi màu ngà rất sang (mà tôi đồ rất sẵn tại Nhà xuất bản Đời Nay vốn tọa lạc cùng trụ sở Tự lực văn đoàn tại 80 Quán Thánh) trên đó Hoàng Đạo, Nhất Linh, Thạch Lam, Huy Cận, Thế Lữ, Tú Mỡ, Khái Hưng, Xuân Diệu (theo thứ tự chữ ký) mỗi người góp một câu:
BÁT TIÊN QUÁ… CHÉN
Bỗng dưng thi sĩ hóa tây Đoan
Nửa mặt nhà văn, nửa mặt quan
Chén rượu tiễn đưa thơ khó nghĩ
Nỗi niềm cách biệt ý khôn toan
Hôm nay nhớ bữa chia bùi ngọt
Lát nữa còn vui cảnh tóp chan
Ví thử anh em đều xuất cả
Còn tuôn ra lắm mạch thơ gàn…
                                        Hanoi 2-2-1940
Và đâu chỉ có Xuân Diệu và Huy Cận không thể quên một thời “chia bùi ngọt” với Tự lực văn đoàn, mà qua hai ông, bản thân tôi cũng tiếc nuối cái bầu không khí văn chương lãng mạn và gia đình ấy trong đó tập thể tồn tại cùng riêng tư, trong đó đố kỵ, “bằng mặt mà chẳng bằng lòng” phải khiếp đảm trước triết lý “mình vì mọi người, mọi người vì mình” trong cuộc đấu tranh đầy cam go vì một nền “văn học quốc ngữ”. “Gái có công, chồng không phụ”, công lao gây dựng nền văn học đậm đà bản sắc dân tộc ấy chẳng những được bạn đọc và các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước ghi nhận mà còn được các nhà cách mạng Việt Nam đánh giá rất cao. Tự lực văn đoàn – Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định với Huy Cận – rất có công với văn học Việt Nam thông qua đổi mới cách viết văn nói riêng và đổi mới nền văn học nước nhà nói chung”. Vẫn theo Huy Cận, các nhà cách mạng khác như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp… đều có cùng một nhận định. Mặt khác, tính đến ảnh hưởng sâu rộng cũng như tổ chức chặt chẽ của nó (có tôn chỉ, nguồn tài chính riêng, cấp giấy chứng nhận thành viên, lập giải thưởng, có cơ quan ngôn luận và thậm chí nhà xuất bản riêng), tôi cho rằng Tự lực văn đoàn xứng đáng được nhìn nhận như Hội Nhà văn đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.
Lùi để tiến, hay như Xuân Diệu nói: “Hy sinh một tiểu đội nhưng để thắng một trận đánh”, bác tôi đành để cơ quan xuất bản có thể nói là “giáo điều” lược bỏ những đề tặng Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo khi làm Tuyển tập Thơ của ông, miễn làm sao thiên hạ biết Xuân Diệu vẫn ra sách đều, vẫn tiếp tục hiện diện một cách tích cực trong đời sống xã hội. Tuy nhiên nếu cho rằng những lược bỏ đề tặng đã nói trên đơn thuần là “chiến thuật”, là việc làm miễn cưỡng của Xuân Diệu thì cũng không hẳn. Còn nhớ, cả Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo đều tham gia Việt Nam Quốc dân đảng (hợp nhất của Đại Việt dân chính đảng, Đại Việt quốc dân đảng và Việt Nam quốc dân đảng) và vì vậy về mặt chính trị là xung khắc và sau Cách mạng Tháng 8 là xung đột với một Xuân Diệu trong Mặt trận Việt Minh. Trong Lời giới thiệu của Tuyển tập Xuân Diệu –Thơ (NXB Văn học, 1983), Hoàng Trung Thông viết: “Người ta thường khen anh (XD) dũng cảm đấu tranh với bọn Quốc dân đảng bằng những bài thơ đả kích”. Quả thật, bên cạnh Ngọn quốc kỳ ca ngợi nền Dân chủ cộng hòa, Xuân Diệu liên tục “ra đòn” đánh lại cái đám “Việt Quốc” (Việt Nam Quốc dân đảng của Nguyễn Tường Tam), Việt Cách (Việt Nam Cách mạng Đồng minh của Nguyễn Hải Thần) bằng những Tổng bất… đình công, Một cuộc biểu tình, Vịnh cái cờ… Không nghi ngờ gì nữa, đây chính là sự khởi đầu của mạch văn “chính trị – quần chúng hóa” của một Xuân Diệu “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi / Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu / Tôi sống với cuộc đời chiến đấu / Của triệu người yêu dấu gian lao”. Không những thế, ông còn chống lại các đảng phái ấy bằng cả “nắm đấm” theo đúng nghĩa đen của từ này. Còn nhớ, bác Diệu tôi nhiều khi dùng “quân sự”, tức là dùng “nắm đấm” để giáo dục tôi, không có “oong, đơ” gì hết. Nhưng một bận khi đang dùng “biện pháp mạnh” thì ông cảm thấy không còn hiệu quả như trước vì lúc này tôi đang lớn vồng ở tuổi thành niên, lập tức ông hét lên: “Mày đừng tưởng lớn rồi mà tao sợ. Ngày trước tao còn đánh nhau tay không với Quốc dân đảng cơ”. Lúc đó tôi nào có để ý gì đến đối tượng mà ông lấy ra so sánh mà chỉ nhói trong tim: đâu phải tôi đã thực sự lớn, mà là bác tôi đã bắt đầu yếu rồi. Và tôi đã khóc dù không mấy đau. Chỉ đến mãi sau này khi được những người hoạt động cùng thời kể lại chuyện Xuân Diệu dừng xe đạp để đánh nhau với một nhóm Việt Quốc, Việt Cách biểu tình chống cách mạng ngay trên đường Garnier (nay là Đinh Tiên Hoàng), Hà Nội trong những ngày Tổng khởi nghĩa thì tôi mới thấm thía chất “cách mạng” nơi “nắm đấm” của ông.  Kết quả là ông bị nhừ đòn và phải thoát thân vì “tương quan lực lượng” quá chênh lệch. “Con ngựa sắt” mà ông phải bỏ lại lúc đó sau này được một người dân trả lại vì trên biển xe có đề “Xuân Diệu”. Cũng may, theo Huy Cận, Xuân Diệu đã thoát được, nếu không chắc sẽ bị chúng bắt đem về thủ tiêu tại một trong những “Hắc điếm” của chúng ở phố Ôn Như Hầu (nay là Nguyễn Gia Thiều), “bót” Hàng Đậu hay phố Joffrin (nay là Lý Nam Đế)… Vậy đó, Xuân Diệu không chỉ “giáp lá cà” với phản cách mạng mà ông còn “vùng lên” chống lại mọi biểu hiện tiêu cực ở con người dù đó là sự ngu dốt hay lười biếng. Để nói ở Xuân Diệu cách mạng là thường trực! Hiểu được như thế thì việc cơ quan xuất bản có lược bỏ đề tặng Nhất Linh – sau này là lãnh tụ Việt Quốc – chắc không thật làm phiền lòng Xuân Diệu. Tuy nhiên, Xuân Diệu không cực đoan: bỏ lời đề tặng Nhất Linh là đủ để bày tỏ chính kiến của mình và ông giữ lại những lời đề tặng Khái Hưng và Hoàng Đạo, điều này được thể hiện trong bản thảo cho Tuyển Thơ của ông. Thái độ đúng mực này của Xuân Diệu là nhất quán với quan điểm của ông từ 1958 đối với các tác phẩm trước Cách mạng: “một số tác phẩm đã đạt tới một mức nghệ thuật nào và đã có một khuynh hướng tiến bộ so với hoàn cảnh thời đó, thì vẫn còn lại một giá trị văn học nghệ thuật. Hoàn toàn vứt cả, coi nó là “dưới Zê-rô”, là không có quan điểm lịch sử trong phê bình” (8). Quan điểm ấy cũng được Huy Cận, người đồng chí của ông suốt cả cuộc đời, chia sẻ. Bản thân thi nhân họ Cù cũng tặng Nhất Linh Áo trắng, Hoàng Đạo Giấc ngủ chiều, Khái Hưng Buồn đêm mưaTràng giang (bài này đề tặng Trần Khánh Giư, tên thật của Khái Hưng) trong thi phẩm Lửa thiêng. Vậy mà trong Tuyển tập thơ Huy Cận xuất bản 1986, lời đề tặng ba thành viên trên của Tự Lực cũng không còn. Tôi có hỏi lại bố tôi về chuyện này thì không chần chừ, ông khẳng định ngay: “Với tư cách là người khởi xướng Tự lực văn đoàn, Nhất Linh rất có công với nền văn học nước nhà. Ông là một đồng nghiệp tốt, thân ái với mọi người. Về mặt chính trị, Nguyễn Tường Tam trải qua ba giai đoạn. Giai đoạn đầu là yêu nước theo hướng dân túy (populiste), giai đoạn thứ hai là chọn nhầm con đường cứu nước qua việc dựa vào Nhật để chống Pháp (như cụ Phan Bội Châu), giai đoạn thứ ba là phản động khi dựa vào Tàu Tưởng để chống lại Việt Minh. Như vậy, Nguyễn Tường Tam là đối lập chính trị với Xuân Diệu và Huy Cận (9). Thật đáng tiếc, con người yêu nước Nhất Linh đã đi nhầm đường để cuối cùng trở thành phản cách mạng”. Rồi bố tôi nói thêm rằng ngay tại Đại hội Tân Trào năm 1944, Lê Đức Thọ đã bàn với ông vận động Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo… đi với Việt Minh và chính cụ Hồ Chí Minh ngay sau khi Cách mạng thành công cũng nói: “ Chú quen biết Nguyễn Trường Tam (Bác đọc nhầm Tường thành Trường) thì chú vận động anh ta đi với Cách mạng, đi với Việt Minh thì tốt”. Nhưng những nhân vật trọng yếu ấy của Việt Nam Quốc dân đảng đã “nguây ngẩy” từ chối vì cho rằng Việt Minh là “độc tài”?! Thậm chí báo Việt Nam do Khái Hưng chủ trương còn “mỉa” rằng nhà thơ Huy Cận ngồi cô đơn ở Bắc Bộ phủ (lúc đó Huy Cận là Bộ trưởng Canh nông) để làm cái gì?! Suy cho cùng, có thể nôm na thế này, vợ chồng không hợp nhau thì ly dị, miễn những đứa con – tác phẩm phải được nuôi cho đến nơi đến chốn và như đã thấy, Xuân Diệu và Huy Cận đâu bỏ rơi “đứa con tinh thần” nào của mình!
Để kết luận, Huy Cận, người bạn nối khố của Xuân Diệu và đồng nhân chứng của “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” khẳng định với tôi rằng cả Xuân Diệu lẫn ông luôn luôn biết ơn Tự lực văn đoàn vì đã “khai sinh” ra họ trên địa hạt văn chương, văn tài và nhất là cái tâm của Nhất Linh, Khái Hưng cũng như của các thành viên sáng lập văn đoàn đối  với sự nghiệp văn học và văn hóa nước nhà là không thể phủ nhận. Thậm chí cho đến tận giờ Huy Cận vẫn từ chối khái niệm “tan” khi nói về sự chấm dứt hoạt động của Văn Đoàn. “Sau khi báo Ngày nay bị chính quyền thực dân đóng cửa vào cuối năm 1939 do những quan điểm chính trị có thể nói rất tiến bộ của nó như đòi cho người Việt Nam quyền được tự do, bình đẳng với người Pháp, phản đối sưu cao thuế nặng… Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí bị Pháp bắt vào năm 1941, Nhất Linh lẩn trốn do hoạt động chính trị thân Nhật chống Pháp, Thế Lữ đi lánh – ông giải thích – không kể Xuân Diệu đã vào Mỹ Tho từ đầu năm 1940, Thạch Lam mất năm 1942, Tự lực văn đoàn trong thực tế không còn thành viên hoạt động nữa”. Và Huy Cận có lý vì “tan” chỉ thích hợp với sự chấm dứt hoạt động bởi những lý do nội tại như mâu thuẫn nội bộ hoặc nghiêm trọng hơn, do mâu thuẫn về lý tưởng nghệ thuật. Để nói cái thực thể văn chương này dường như là trời sinh ra để dẫn nhập Thơ mới với lịch sử văn học nước nhà, vừa kịp định vị “trái đôi” Huy – Xuân ấy trên Thi Đàn dân tộc thì cũng là lúc nó không tồn tại nữa./.
Chú thích
(1)  Con trai nhà thơ Huy Cận cháu ruột và là con nuôi nhà thơ Xuân Diệu, Tiến sỹ Luật, Thạc sỹ Văn (Đại học Paris – Pháp), họa sỹ, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam.
(2)  Về khả năng họa sỹ Nguyễn Gia Trí là thành viên sáng lập của TLVĐ, tôi (CHHV) sẽ trình bày trong một nghiên cứu khác.
(3)  Nghệ sỹ nhân dân Song Kim, tên thật là Phạm Thị Nghĩa, sinh năm 1913, sống với Thế Lữ từ năm 1935 và đến cuối năm 1938 thì kết hôn với thi sỹ. Sau ngày cưới, Thế Lữ – Song Kim ở tại nhà Thạch Lam ở làng Yên phụ ven bờ Hồ Tây cho đến khi nhà văn mất vào năm 1942 vì bệnh lao. Hiện Song Kim sống tại 50 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hà Nội.
(4)  Cuốn Văn học lãng mạn Việt Nam (1930 -1945) -  NXB Văn học 2002 (tr. 241) và một số tài liệu khác cho rằng Ngày nay kế tục Phong hóa sau khi Phong hóa bị đóng cửa vào năm 1936. Trong thực tế hai tờ báo song song tồn tại từ năm 1935 là khi Ngày nay ra đời cho đến năm 1936 là khi Phong hóa bị đóng của vì ở “en tête” của giấy viết thư của Tự lực văn đoàn có ghi: Phong hóa – 80 Avenue Grand – Bouddha (Quán Thánh) và Ngày nay – 55 Rue des Vermicelles (Hàng Bún). Lý do của sự song hành nói trên là do Nhất Linh cảm thấy trước sau Phong hóa với nội dung đả thực bài phong rõ rệt sẽ bị chính quyền thực dân đóng cửa nên ra Ngày nay để dự phòng.
(5)  Theo Tú Mỡ (Trong bếp núc của Tự lực văn đoànTạp chí văn học số 5 -6/1988 và số 1/1989) và các tác giả Lê Thị Đức Hạnh, Vu Gia… thì ngoài Xuân Diệu TLVĐ còn kết nạp thêm Trần Tiêu, em ruột Khái Hưng (tức Trần Khánh Giư). Tuy nhiên mỗi lần nói với tôi (CHHV) về TLVĐ, cả Xuân Diệu và Huy Cận chưa bao giờ nhắc đến Trần Tiêu. Do có sự khác biệt này mà tôi đã tiến hành một cuộc khảo cứu với kết quả là Trần Tiêu không phải là thành viên TLVĐ. Thực vậy, ngoại trừ loại “Sách Hồng”, từ 1936 NXB Đời Nay của TLVĐ mỗi khi in tác phẩm của các thành viên TLVĐ thì dưới tên tác giả luôn có dòng chữ “Trong Tự lực văn đoàn” hoặc “Tự lực văn đoàn”, điều này có thể thấy rõ trên các tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ và Xuân Diệu (Dòng nước ngược của Tú Mỡ in năm 1934) trong khi không có tác phẩm nào của Trần Tiêu do NXB Đời Nay in như Con trâu (1940), Chồng con (1941) có dòng chữ này.
(6)  Tế Hanh – Cần công bằng ghi nhận phần đóng góp của Tự lực văn đoàn (Hà Minh Đức thực hiện) – NXB Giáo dục, 2007.
(7)  Huy Cận – Hồi ký song đôi – Tập 2 – NXB Hội Nhà  văn, 2003)
(8)  Xuân Diệu – Những bước đường tư tưởng của tôi – NXB Văn hóa, 1958
(9)  Từ 1939, Huy Cận, thành viên Ban lãnh đạo Tổng hội Sinh viên (toàn Đông Dương) đã cùng với Dương Đức Hiền, Chủ tịch Tổng hội và là người có quan hệ mật thiết với Đảng Cộng sản, đấu tranh chống khuynh hướng thân Nhật trong thanh niên, sinh viên. Năm 1941, Huy Cận tham gia Việt Minh “đánh Pháp đuổi Nhật” và năm 1943, Xuân Diệu tham gia Việt Minh ở Hà Nội ngay sau khi từ chức Tham tá nhà Đoan ở Mỹ Tho.
C.H.H.V.
Gia đình tác giả gửi trực tiếp cho BVN

No comments:

Post a Comment