Nhân dịp Căm Bốt làm lễ quốc tang cho cựu hoàng Sihanouk, nhìn lại những nỗ lực của cựu Hoàng đế Bảo Đại trong cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất cho đất nước và dân tộc Việt Nam
Phạm Cao Dương
Bài này được viết theo lời yêu cầu của một số người trẻ trong đó nhiều người là sinh viên đại học nhằm bổ khuyết cho sự hiểu biết của anh chị em này nói riêng và giới trẻ Việt Nam nói chung về vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn nhân dịp 100 năm năm sinh của ông cũng như về một giai đoạn lịch sử có quá nhiều góc tối hay góc khuất, luôn cả oan khuất và cũng nhân dịp đầu Xuân Quý Tỵ 2013 sắp tới.
Yêu cầu này cũng đến không lâu khi Cựu Hoàng Norodom Sihanouk của nước láng giềng thân cận nhất của Việt Nam, Vương Quốc Khmer hay quen thuộc hơn, Căm Bốt, vừa mới băng hà và thi thể còn được quàn tại hoàng cung chờ ngày quốc táng. Khi liên lạc với tôi, như để chắc ăn, một trong những vị này đã dùng cả điện thoại lẫn điện thư và để lại lời nhắn. Để đáp lễ, tôi cũng trả lời anh bằng điện thư trước rồi sau đó gọi điện thoại cho anh. Hai chúng tôi thảo luận với nhau rất lâu, không dưới một giờ đồng hồ về đề tài không mấy đơn giản nhưng vô cùng cần thiết này.
Câu chuyện phải nói là vô cùng hào hứng giữa hai người không cùng thế hệ. Vì vậy thay vì viết một bài dưới hình thức khảo cứu, tìm hiểu hay bài học dùng trong lớp học như tôi thường làm, tôi xin được tóm tắt những gì chúng tôi đã chia sẻ với nhau cho bài viết bớt khô khan và nhẹ nhàng hơn hầu người bạn trẻ của tôi có thể đăng trên báo xuân của anh và các bạn của anh. Tôi cũng tránh không nêu tên anh và tổ chức của anh để bài viết có thể được dễ dàng phổ biến rộng rãi hơn cho những anh chị em thuộc những nhóm khác.
Nhu cầu cần được xét lại
Cựu Hoàng Bảo Đại, như sau này người ta thường gọi ông kể từ ngày ông thoái vị, thường bị nhiều người, Việt Nam có, ngoại quốc có, tệ hơn trong đó có cả các sử gia, máy móc theo nhau gọi là vua bù nhìn, tay sai của hết Tây đến Nhật, một ông vua chỉ ham ăn chơi đàng điếm, một thứ playboy do người Pháp nặn ra và đặt lên ngôi để dễ sai bảo. Ngay cả Sử Gia Trần Trọng Kim, khi được Học Giả Hoàng Xuân Hãn khuyên là nên gặp ông để tìm hiểu, lúc đầu cũng đã từ chối, gọi ông là “thằng ngốc”- “thằng ngốc, gặp nó làm gi?” Nhưng sau khi đã gặp rồi, nhà học giả kiêm sử gia này đã phải thay đổi hoàn toàn nhận định mà ông đã có từ trước.
Ở đây tôi không bàn về chuyện này mà chỉ nói tới những gì Bảo Đại đã làm ngay từ khi vị cựu hoàng này còn là Đương Kim Hoàng Đế hay sau này là Cựu Hoàng và là Quốc Trưởng của Quốc Gia Việt Nam. Đây là những đóng góp tôi nghĩ là không nhỏ, nếu không nói là vô cùng lớn lao so với những đóng góp của những lãnh tụ khác của Việt Nam, trong công cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất cho quốc gia và dân tộc của ông bằng đường lối hòa bình, phi bạo lực. Cho cá nhân ông, những nỗ lực của ông đã không mang lại được những thành quả mà ông mong muốn. Ông đã không bảo vệ được di sản mà tổ tiên ông để lại, đã không xây dựng được một chế độ quân chủ lập hiến cho đất nước và thần dân của ông, điều ông muốn làm ngay từ đầu, không giữ được sự đoàn kết dân tộc mà ông trịnh trọng ghi trong chiếu thoái vị... Cuối cùng ông đã bị mọi người trách cứ, bỏ rơi và chết ở xứ người(1). Thần dân cũ của ông không mấy ai để ý tới sự qua đời của ông, trái với cái chết của một quốc vương khác trẻ hơn ông nhưng đồng thời với ông và cũng phải đối phó với vấn đề độc lập của quốc gia giống như ông sau này. Tôi muốn nói tới Cựu Hoàng Norodom Sihanouk của xứ Căm Bốt. Giống nhưng khác với Bảo Đại(2) ở đường lối đấu tranh vì trong đời ông, Sihanouk đã có thời dùng bạo lực để đàn áp đối lập, đã cộng tác với Khmer Đỏ, tổ chức Cộng Sản Căm Bốt chịu ảnh hưởng của Trung Cộng của các lãnh tụ Pol Pot và Ieng Sary, một thời đã mang họa diệt chủng đến cho xứ Căm Bốt khiến cho hàng triệu người dân của xứ này bị tàn sát bằng đủ mọi phương tiện với hàng núi xương được phát hiện, cho đến nay vẫn được bảo tồn coi như di tích của một thời đen tối nhất trong lịch sử của dân tộc Khmer. Còn Bảo Đại thì tuyệt đối không, kể cả việc ông đã từ chối không chấp nhận cho người Nhật đứng ra bảo vệ lãnh thổ, hoàng cung và an ninh cho chính ngôi vị và bản thân ông, chống lại cuộc nổi dậy của Việt Minh và những người Cộng Sản hối Tháng Tám năm 1945 theo trách nhiệm giữ gìn trật tự mà quốc tế giao cho họ. Lý do đơn giản là vì Bảo Đại không muốn dùng ngưới ngoại quốc để chống lại người Việt Nam, đồng bào của ông và thần dân của ông. Sihanouk đã được chính quyền và người dân Căm Bốt thương tiếc bằng những giọt nước mắt nhỏ xuống bên lề đường hay ở trên công viên trước hoàng cung ở Nam Vang hay ở nhiều nơi ở Căm Bốt. Người ta đã long trọng đón thi hài của ông từ Bắc Kinh được đưa về Nam Vang và long trọng làm quốc tang cho ông trong bốn ngày đầu tháng 2 năm 2013, vào lúc người Việt Nam ở trong nước cũng như ở Hải Ngoại sửa soạn mừng đón Xuân Quý Tỵ.
Nỗ lực canh tân đầu tiên với Phạm Quỳnh và Ngô Đình Diệm
Trở về với những cuộc tranh đấu của Cựu Hoàng Bảo Đại. Nhà vua đã bắt đầu sự nghiệp này của mình từ rất sớm, ngay từ khi ông mới từ Pháp trở về nước đế chính thức lên ngôi, sau hơn mười năm du học và hấp thụ được cả hai nền văn hóa Đông Tây qua sự rèn luyện của Cựu Khâm Sứ Charles về phía người Pháp và Cử Nhân Lê Như Lâm với tư cách là giảng tập hồi nhà vua còn ở Việt Nam rồi phụ đạo trong suốt thời gian ông ở Pháp về phía người Việt, chưa kể những gì ông đẵ hấp thụ được từ các trường trung học Pháp nhất là trường Khoa Học Chính Trị ở Paris trong các năm các năm 1922-1932 [Hoàng tử Vĩnh Thụy - Vua Bảo Đại lúc này 9-19 tuổi - DCVOnline], rèn luyện để làm vua và làm nguyên thủ quốc gia, điều các nhà lãnh đạo sau ông trong lịch sử Việt Nam hiện đại không có được. Tranh đấu này mang tính cách của một cuộc cải cách và đã được khơi mào bởi những vận động của giới trí thức đương thời trước đó, đại diện là học giả Phạm Quỳnh của báo Nam Phong xuyên qua những bài viết của họ Phạm về một chế độ quân chủ lập hiến và về nhu cầu trả lại cho nhà vua quyền nội trị ở hai xứ Bắc Kỳ và Trung Kỳ và trả lại tổ quốc cho ngươòi Việt Nam. Mở đầu, ngay từ tháng 9 năm 1932 Phạm Quỳnh đã được cử làm Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng hàm Thượng Thư để trực tiếp làm việc với nhà vua. Tiếp theo, ngày 10 tháng 12 năm 1932 bằng một đạo dụ, nhà vua loan báo chính thức cầm quyền qua một chính thể quân chủ lập hiến kèm theo với những dự án cải tổ guồng máy cai trị, hệ thống quan lại, tổ chức giáo dục và tư pháp, Viện Dân Biểu Trung Kỳ... Để thực thi những dự án này, ngày 2 tháng 5 năm 1933, như một biến cố bất ngờ, Bảo Đại lại ký một dụ khác loan báo tự mình chấp chánh và thay thế sáu vị thượng thư già bằng những nhân vật trẻ trong đó có Ngô Đình Diệm giữ Bộ Lại, Phạm Quỳnh giữ Bộ Học, Bùi Bằng Đoàn Bộ Hình…
Những việc làm đầu tiên kể trên của Bảo Đại, mặc dầu đã đem lại những tia hy vọng cho người dân ở hai xứ Bắc và Trung Kỳ về một vận hội mới cho đất nước, đã không tồn tại lâu dài, một phần vì người Pháp cản trở vì trả lại quyền nội trị ở Bắc Kỳ và ở Trung Kỳ là trở lại với Hòa Ước 1884(3) từ đó sẽ động tới các chức thống sứ Bắc Kỳ và Khâm sứ Trung Kỳ, một phần là do mâu thuẫn nội bộ giữa phe quan lại cũ và những trí thức mới, giữa những người đi vào hoạn lộ qua ngả quan trường và những ngưuời đi vào đường này qua đường tắt cũng như giữa hai nhân vật chủ cốt là Phạm Quỳnh và Ngô Đình Diệm mà nhà vua đặt hết tin tưởng vào coi như đôi xe bổ khuyết, hỗ trợ cho nhau. Cuối cùng Ngô Đình Diệm đã từ chức, lôi cuốn theo một vài nhân vật mà nhà vua tin cậy khác. Thất bại trong cố gắng đầu đời, nhà vua trở thành “cô đơn, chỉ có một mình” để đến khi Hoàng Xuân Hãn nhắc ông là phải làm gì vì giới thanh niên mong đợi, nhà vua đã hỏi lại “Làm gì? Làm với ai?” Có điều ông vẫn không hoàn toàn mất hết hy vọng như sau này ông ghi trong hồi ký của ông: “Dù sao đi nữa, sự có mặt của tôi trên ngôi vẫn làm cho giới trẻ giữ được niềm hy vọng. Những người như Ngô Dình Diệm và Nguyễn Đệ lúc ấy sẽ lại ra giúp tôi theo chiều hướng này” “Chắc ngưòi Pháp cho rằng tôi đã ngoan ngoãn biết nghe theo lời của họ. Dù họ có tin rằng họ đã thắng một cách dễ dàng, tôi cũng chẳng nên có lý do gì ngờ vực tôi. Tôi tin rằng nhân dân sẽ hiểu các hình thái buông thả bên ngoài của tôi, bởi cái hình thái ấy cho thấy sự thờ ơ, lơ là với nhiệm vụ của tôi…” và ông đã sống sót để chờ thời, không bị rơi vào số phận của các VuaThành Thái và Duy Tân mà ông hiểu rõ hơn ai hết cũng như bị mất tinh thần và trở thành một con người vô dụng.
(Còn tiếp) phần kết
Cựu Hoàng Bảo Đại, như sau này người ta thường gọi ông kể từ ngày ông thoái vị, thường bị nhiều người, Việt Nam có, ngoại quốc có, tệ hơn trong đó có cả các sử gia, máy móc theo nhau gọi là vua bù nhìn, tay sai của hết Tây đến Nhật, một ông vua chỉ ham ăn chơi đàng điếm, một thứ playboy do người Pháp nặn ra và đặt lên ngôi để dễ sai bảo. Ngay cả Sử Gia Trần Trọng Kim, khi được Học Giả Hoàng Xuân Hãn khuyên là nên gặp ông để tìm hiểu, lúc đầu cũng đã từ chối, gọi ông là “thằng ngốc”- “thằng ngốc, gặp nó làm gi?” Nhưng sau khi đã gặp rồi, nhà học giả kiêm sử gia này đã phải thay đổi hoàn toàn nhận định mà ông đã có từ trước.
Hoàng tử Vĩnh Thụy sau lưng Vua Khải Định nhân dịp đi xem đấu xảo ở Pháp 1922 (t). Vua Bảo Đại ở Pháp khoảng cuối thập niên 1920 (p) Nguồn ảnh: OntheNet |
Nỗ lực canh tân đầu tiên với Phạm Quỳnh và Ngô Đình Diệm
Văn thư của ông Tổng lý Đại thần Phạm Quỳnh [ảnh góc] gởi Vua Bảo Đại xin trao huy chương tứ hạng Long Tinh cho Chánh Cai đội Khố xanh Louis Fontan theo yêu cầu của Khâm sứ Pháp Maurice Fernand Graffeuil (3/2/1939) Nguồn ảnh: Phan Thuận An/OntheNet |
Những việc làm đầu tiên kể trên của Bảo Đại, mặc dầu đã đem lại những tia hy vọng cho người dân ở hai xứ Bắc và Trung Kỳ về một vận hội mới cho đất nước, đã không tồn tại lâu dài, một phần vì người Pháp cản trở vì trả lại quyền nội trị ở Bắc Kỳ và ở Trung Kỳ là trở lại với Hòa Ước 1884(3) từ đó sẽ động tới các chức thống sứ Bắc Kỳ và Khâm sứ Trung Kỳ, một phần là do mâu thuẫn nội bộ giữa phe quan lại cũ và những trí thức mới, giữa những người đi vào hoạn lộ qua ngả quan trường và những ngưuời đi vào đường này qua đường tắt cũng như giữa hai nhân vật chủ cốt là Phạm Quỳnh và Ngô Đình Diệm mà nhà vua đặt hết tin tưởng vào coi như đôi xe bổ khuyết, hỗ trợ cho nhau. Cuối cùng Ngô Đình Diệm đã từ chức, lôi cuốn theo một vài nhân vật mà nhà vua tin cậy khác. Thất bại trong cố gắng đầu đời, nhà vua trở thành “cô đơn, chỉ có một mình” để đến khi Hoàng Xuân Hãn nhắc ông là phải làm gì vì giới thanh niên mong đợi, nhà vua đã hỏi lại “Làm gì? Làm với ai?” Có điều ông vẫn không hoàn toàn mất hết hy vọng như sau này ông ghi trong hồi ký của ông: “Dù sao đi nữa, sự có mặt của tôi trên ngôi vẫn làm cho giới trẻ giữ được niềm hy vọng. Những người như Ngô Dình Diệm và Nguyễn Đệ lúc ấy sẽ lại ra giúp tôi theo chiều hướng này” “Chắc ngưòi Pháp cho rằng tôi đã ngoan ngoãn biết nghe theo lời của họ. Dù họ có tin rằng họ đã thắng một cách dễ dàng, tôi cũng chẳng nên có lý do gì ngờ vực tôi. Tôi tin rằng nhân dân sẽ hiểu các hình thái buông thả bên ngoài của tôi, bởi cái hình thái ấy cho thấy sự thờ ơ, lơ là với nhiệm vụ của tôi…” và ông đã sống sót để chờ thời, không bị rơi vào số phận của các VuaThành Thái và Duy Tân mà ông hiểu rõ hơn ai hết cũng như bị mất tinh thần và trở thành một con người vô dụng.
Ảnh Vua Bảo Đại tặng vợ chồng Tòan Quyền Đông Dương, 15/01/1934- 09/1936, Eugène Jean Louis René Robin (6/8/1934) Nguồn ảnh: AUDAP - MIRABAUD |
(Còn tiếp) phần kết
Bài do tác giả gởi. DCVOnline chú thích, minh hoạ và đề tựa.
(1) Sinh năm 1913. Khi 9 tuổi sang Pháp học. Làm Vua Việt Nam từ 1926 đến 1945,dưới thời bảo hộ trong Liên hiệp Pháp, nhưng ở Paris đến năm 1932 mới về nước lên ngôi. Ngày 25 tháng 8 1945, Vua Bảo Đại thoái vị trao quyền lại và nhận chức Cố vấn tối cao cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo từ 2/9/1945 đến 11/1946 khi Pháp trở lại Việt Nam. Từ 11/1946 cựu hoàng Bảo Đại bỏ Việt Nam sang sống ở Hong Kong và Trung Hoa. 1949 chính quyền Pháp đưa ông vào vai trò Quốc Trưởng Việt Nam, ông trở về sống tại Pháp. Sau Hiệp định Geneva 1954, cựu hoàng Bảo Đại trở thành Quốc trưởng Nam Việt Nam và bổ ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng. 13/10/1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý, truất phế Quốc trưởng Bảo đại. Cựu hoàng Bảo Đại qua đời năm 1997 tại Paris, an táng trong nghĩa trang Passy.
(2) Norodom Sihanouk (31/10/1922 – 15/10/2012) làm Vua của Cambodia từ 1941-1955. Thời gian ông có thực quyền là từ 11/1953 - sau khi độc lập với Pháp - đến tháng 11, 1970 khi bị Thủ tướng Lon Nol và Quốc hội lật đổ. Sau khi bị lật đổ, cựu hoàng Shihanouk sang Bắc Kinh lập Mặt trận Thống nhất Giải phóng Kampuchea, ủng hộ Khmer Đỏ, chống chính phủ Lon Nol. Trong suốt thời gian Chính phủ Lon Nol năm quyền ông Shihanouk sống ở Bắc Hàn. 1975, khi Cambodia dưới sự kiểm soát của chính quyền Pol Pot (Khmẻ Đỏ), ông Shihanouk trở thành Quốc trưởng “tượng trưng”. 1976 Chính quyền Pol Pot giải nhiệm ông Quốc trưởng tượng trưng. 1978, Việt Nam xâm lăng Canbodia, ông Shihanouk sang New York vận động chống Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc - không ủng hộ chính phủ Hen Samrin do Việt Nam dựng lên - và về tị nạn tại Pyongyang, Bắc Hàn. 1982 Shihanouk trở thành Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp Dân Chủ Kampuchea (gồm phe Quân đội Quốc gia Shihanouk, MTGP Khmer của Son Sann, và Khme Đỏ). 1989 Việt Nam rút quân khỏi Cambodia để lại chính phủ Cộng hòa Nhân dân Kampuchea, theo Việt Nam, dưới quyền lãnh đạo của của Khmer Đỏ Hun Sen. 1991 Shihanouk lại trở về Cambodia sau hiệp định Paris ký kết giữa 2 chính phủ Liên hiệp Dân Chủ Kampuchea và Cộng hòa Nhân dân Kampuchea. 1993 Shihanouk lại trở thành Quốc vương của Cambodia. Từ tháng Giêng 2004 Quốc vương Shihanouk, vì nhiều bệnh, chọn đời sống lưu vong ở Bình Nhưỡng, Bắc Hàn và sau đó tại Bắc Kinh, Trung Hoa. Trong thời gian này Chea Sim tạm thời là Quốc trưởng Cambodia. Đế tháng 10, Hội đồng Hoàng gia chọn Norodom Sihamoni, một con trai của Shihanouk, làm Quốc vương. Và Shihanouk trở thành Thái thượng Hoàng của Cambodia. Ông Shihanouk qua đời ngày 15 tháng 10, 2012 tại Bắc King sau một cơn dồn máu cơ tim.
(3) 26 tháng Giêng 1928 (Năm thứ ba Triều Bảo Đại) Cơ Mật Viện, trong một thông báo cho quan triều đình và ở địa phương nhắc lại Điều 13 Hòa ước Paternotre: 1/ “Chỉ có Thiên chúa giáo mới có quyền truyền đạo và hoạt động trong tại Việt Nam.”2/ Đạo Cao Đài và Tin Lành phát triền ở Nam Kỳ thuộc địa có thể gây bạo loạn tại các khu thuộc xứ bảo hộ Trung Kỳ. 3/ Theo lệnh của Khâm sứ Đại thần cấm chỉ mọi hoạt động của hai đạo Tin Lành và Cao Đài. [Bulletin Officiel en Langue Indigène (Trung Kỳ Bảo Hộ Quốc Ngữ Công Báo), No. I, 1928, p. 6.]
Thực dân Pháp, theo Hòa ước Paternotre chia Việt Nam thành 3 kỳ: Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, Trung Kỳ (An Nam, từ phía nam tỉnh Bình Thuận đến phía nam tỉnh Ninh Bình) và Bắc Kỳ (Tonkin) là 2 xứ thuộc quyền bảo hộ của Pháp.
20/5/1928 cùng năm, Khâm Sứ Jules Friès ra Nghị định 1321 cấm xuất bản cuốn Thánh Ngôn Thần Tiên Đại Pháp (Messages des Grands Esprits de France) của Nguyễn Ngọc Thơ (1873-1950) [Bulletin Officiel en Langue Indigène (Trung Kỳ Bảo Hộ Quốc Ngữ Công Báo), No. VII, 1928, p. 100.], một chức sắc cao cấp của đạo Cao Đài sau này là Thủ tướng từ tháng 11 năm 1963 đến cuối tháng 1 năm 1964 sau cuộc đảo chính lật đổ và giết Tổng thống Ngô Đình Diệm.
19/6/1935 (Năm thứ mười ba Triều Bảo Đại), Thượng thư Bộ Lễ, Tôn Thất Quảng ra Thông báo 1104 gởi tất cả quan lại xứ Trung Kỳ bảo hộ - được Patau, Bí thư của Khâm sứ Maurice Fernand Graffeuil duyệt ngày 22 tháng 6, 1935 - nhắc lại lệnh cấm đạo Cao Đài đã ban trong Thông báo số 40 ngày 6 tháng 3, 1929 (Năm thứ tư Triều Bảo Đại) [Bulletin Administratif de l’Annam (Tạp San Hành Chánh Trung Kỳ), No. 12, Huế: 10 July 1935, pp. 801-802.]
[Nguồn: Huệ Khải Lê Anh Dũng, Cấm Đạo Cao Đài Ở Trung Kỳ 1928-1950 - Caodaism Under Persecution In Central Vietnam 1928-1950, Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2012].
(1) Sinh năm 1913. Khi 9 tuổi sang Pháp học. Làm Vua Việt Nam từ 1926 đến 1945,dưới thời bảo hộ trong Liên hiệp Pháp, nhưng ở Paris đến năm 1932 mới về nước lên ngôi. Ngày 25 tháng 8 1945, Vua Bảo Đại thoái vị trao quyền lại và nhận chức Cố vấn tối cao cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo từ 2/9/1945 đến 11/1946 khi Pháp trở lại Việt Nam. Từ 11/1946 cựu hoàng Bảo Đại bỏ Việt Nam sang sống ở Hong Kong và Trung Hoa. 1949 chính quyền Pháp đưa ông vào vai trò Quốc Trưởng Việt Nam, ông trở về sống tại Pháp. Sau Hiệp định Geneva 1954, cựu hoàng Bảo Đại trở thành Quốc trưởng Nam Việt Nam và bổ ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng. 13/10/1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý, truất phế Quốc trưởng Bảo đại. Cựu hoàng Bảo Đại qua đời năm 1997 tại Paris, an táng trong nghĩa trang Passy.
(2) Norodom Sihanouk (31/10/1922 – 15/10/2012) làm Vua của Cambodia từ 1941-1955. Thời gian ông có thực quyền là từ 11/1953 - sau khi độc lập với Pháp - đến tháng 11, 1970 khi bị Thủ tướng Lon Nol và Quốc hội lật đổ. Sau khi bị lật đổ, cựu hoàng Shihanouk sang Bắc Kinh lập Mặt trận Thống nhất Giải phóng Kampuchea, ủng hộ Khmer Đỏ, chống chính phủ Lon Nol. Trong suốt thời gian Chính phủ Lon Nol năm quyền ông Shihanouk sống ở Bắc Hàn. 1975, khi Cambodia dưới sự kiểm soát của chính quyền Pol Pot (Khmẻ Đỏ), ông Shihanouk trở thành Quốc trưởng “tượng trưng”. 1976 Chính quyền Pol Pot giải nhiệm ông Quốc trưởng tượng trưng. 1978, Việt Nam xâm lăng Canbodia, ông Shihanouk sang New York vận động chống Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc - không ủng hộ chính phủ Hen Samrin do Việt Nam dựng lên - và về tị nạn tại Pyongyang, Bắc Hàn. 1982 Shihanouk trở thành Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp Dân Chủ Kampuchea (gồm phe Quân đội Quốc gia Shihanouk, MTGP Khmer của Son Sann, và Khme Đỏ). 1989 Việt Nam rút quân khỏi Cambodia để lại chính phủ Cộng hòa Nhân dân Kampuchea, theo Việt Nam, dưới quyền lãnh đạo của của Khmer Đỏ Hun Sen. 1991 Shihanouk lại trở về Cambodia sau hiệp định Paris ký kết giữa 2 chính phủ Liên hiệp Dân Chủ Kampuchea và Cộng hòa Nhân dân Kampuchea. 1993 Shihanouk lại trở thành Quốc vương của Cambodia. Từ tháng Giêng 2004 Quốc vương Shihanouk, vì nhiều bệnh, chọn đời sống lưu vong ở Bình Nhưỡng, Bắc Hàn và sau đó tại Bắc Kinh, Trung Hoa. Trong thời gian này Chea Sim tạm thời là Quốc trưởng Cambodia. Đế tháng 10, Hội đồng Hoàng gia chọn Norodom Sihamoni, một con trai của Shihanouk, làm Quốc vương. Và Shihanouk trở thành Thái thượng Hoàng của Cambodia. Ông Shihanouk qua đời ngày 15 tháng 10, 2012 tại Bắc King sau một cơn dồn máu cơ tim.
(3) 26 tháng Giêng 1928 (Năm thứ ba Triều Bảo Đại) Cơ Mật Viện, trong một thông báo cho quan triều đình và ở địa phương nhắc lại Điều 13 Hòa ước Paternotre: 1/ “Chỉ có Thiên chúa giáo mới có quyền truyền đạo và hoạt động trong tại Việt Nam.”2/ Đạo Cao Đài và Tin Lành phát triền ở Nam Kỳ thuộc địa có thể gây bạo loạn tại các khu thuộc xứ bảo hộ Trung Kỳ. 3/ Theo lệnh của Khâm sứ Đại thần cấm chỉ mọi hoạt động của hai đạo Tin Lành và Cao Đài. [Bulletin Officiel en Langue Indigène (Trung Kỳ Bảo Hộ Quốc Ngữ Công Báo), No. I, 1928, p. 6.]
Thực dân Pháp, theo Hòa ước Paternotre chia Việt Nam thành 3 kỳ: Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, Trung Kỳ (An Nam, từ phía nam tỉnh Bình Thuận đến phía nam tỉnh Ninh Bình) và Bắc Kỳ (Tonkin) là 2 xứ thuộc quyền bảo hộ của Pháp.
20/5/1928 cùng năm, Khâm Sứ Jules Friès ra Nghị định 1321 cấm xuất bản cuốn Thánh Ngôn Thần Tiên Đại Pháp (Messages des Grands Esprits de France) của Nguyễn Ngọc Thơ (1873-1950) [Bulletin Officiel en Langue Indigène (Trung Kỳ Bảo Hộ Quốc Ngữ Công Báo), No. VII, 1928, p. 100.], một chức sắc cao cấp của đạo Cao Đài sau này là Thủ tướng từ tháng 11 năm 1963 đến cuối tháng 1 năm 1964 sau cuộc đảo chính lật đổ và giết Tổng thống Ngô Đình Diệm.
19/6/1935 (Năm thứ mười ba Triều Bảo Đại), Thượng thư Bộ Lễ, Tôn Thất Quảng ra Thông báo 1104 gởi tất cả quan lại xứ Trung Kỳ bảo hộ - được Patau, Bí thư của Khâm sứ Maurice Fernand Graffeuil duyệt ngày 22 tháng 6, 1935 - nhắc lại lệnh cấm đạo Cao Đài đã ban trong Thông báo số 40 ngày 6 tháng 3, 1929 (Năm thứ tư Triều Bảo Đại) [Bulletin Administratif de l’Annam (Tạp San Hành Chánh Trung Kỳ), No. 12, Huế: 10 July 1935, pp. 801-802.]
[Nguồn: Huệ Khải Lê Anh Dũng, Cấm Đạo Cao Đài Ở Trung Kỳ 1928-1950 - Caodaism Under Persecution In Central Vietnam 1928-1950, Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2012].
No comments:
Post a Comment