Monday 27 August 2012

Không còn mùa Thu

 
Phạm Đình Trọng
 
 
 
Cuối năm, những đàn chim từ phương Bắc giá lạnh nối nhau sải cánh bay về phương Nam rực rỡ nắng ấm, trốn cái lạnh như đóng băng cả không khí. Từ ngày vào sống ở phương Nam, nơi thời tiết chỉ có hai mùa, mùa mưa và mùa khô, cuối năm, tôi cũng trở thành một cánh chim di trú.
 
Ở Phương Nam, mùa khô chang chang nắng nóng. Mùa mưa cũng nồng nàn sức nóng. Không có mùa đông giá lạnh nên cũng không có tiết giao mùa, không có ngọn gió dùng dằng, ngập ngừng từ mùa hè chuyển sang mùa đông. Không có mùa thu như cây cầu dịu dàng, bao dung nối hai bờ nóng lạnh. Mùa thu chỉ có trong khái niệm. Cuối năm, khi ngoài Bắc vào độ tiết thu muộn, ngọn gió heo may xào xạc trên tán cây, xào xạc trong cõi lòng, tôi lại có nỗi bồn chồn nhớ mùa thu miền Bắc. Nhớ ngọn gió se lạnh gợi cảm trên cánh tay trần. Nhớ màn sương huyền thoại bảng lảng trên Hồ Tây. 
 
Mỗi độ cuối thu, bầy chim phương Bắc kéo đàn bay về phương Nam tìm nắng ấm thì tôi lại bồi hồi hành hương ngược hướng bầy chim di trú để được đắm mình trong tiết thu bâng khuâng của miền Bắc. Khi ngọn gió heo may về, tôi cũng trở thành một cánh chim di trú đi tìm mùa thu. Năm nay tôi ra Hà Nội từ giữa tháng mười và tôi đã rong ruổi trên nhiều ngả đường châu thổ sông Hồng trong tiết thu dìu dặt.
 
1. Đám mây đen trên vòm trời mùa Thu
 
Tôi đã đi giữa cánh đồng lúa chín vàng ở tỉnh Hà Nam, vùng rốn trũng nhất của đồng bằng Bắc Bộ. Đang trong vụ gặt. Lúa phơi vàng trên đường nhựa. Rơm trải vàng bên vệ đường. Trên những mảnh ruộng đã gặt, những dải khói trắng đốt rơm rạ bay la đà trên cánh đồng. Hương lúa thơm trong hơi thở. Mùi khói rơm thơm trong chiều quê. Nhìn cảnh sắc tưởng như làng quê vẫn yên bình, êm ả tự ngàn xưa. Nhưng trên con đường nhánh từ đường 21 vắng vẻ đi vào chùa Hương không phải mùa lễ hội, tôi thấy cách quãng khoảng hai, ba cây số lại có một tốp công an chốt chặn bên đường, dáng vẻ xăng xái, mắt nhìn xăm soi.
 
Chợt có những hạt mưa nhỏ lất phất. Tôi dừng xe máy, xuống giúp người đàn ông đang vội vã hốt lúa phơi trên đường và hỏi: Có chuyện gì mà công an rải đầy đường vậy, bác? Trả lời: Họ rải quân bắt những người đi xe máy không đội mũ bảo hiểm đấy mà! Có lẽ đó chỉ là cách hiểu của người nông dân chỉ quan tâm đến mưa nắng, mùa màng! Người dân đã quá quen với việc cảnh sát rải khắp đường, hùng hổ đuổi bắt người dân chỉ vì một lỗi nhỏ trong sinh hoạt, quá quen với việc cả bộ máy bạo lực nhà nước được huy động ra quyết liệt xử lí những sinh hoạt dân sự nhỏ nhặt! Bắt người đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, việc gì phải chốt chặn dày đặc như vậy! Trên con đường vắng, cảnh sát bịt bùng, khí thế đằng đằng như thời nô lệ, Pháp rải mật thám chìm nổi ra lùng bắt cộng sản, lùng bắt những người tham gia hội kín! Làng quê êm ả, mùa thu dịu dàng quá nhưng những tốp cảnh sát đằng đằng, giăng giăng kia như những đám mây đen giữa trời thu trong vắt!
 
Lại nhớ sáng chủ nhật 23 tháng mười, tôi định đến Hồ Gươm, đến tượng đài Lý Thái Tổ, nơi những sáng chủ nhật hồi tháng tám, tháng chín, những người Việt Nam yêu nước tập trung biểu tình khẳng định ý chí độc lập toàn vẹn lãnh thổ trước thói ngạo mạn kẻ cả gây hấn xâm chiếm biển đảo Việt Nam của bành trướng phương Bắc. Xuống xe buýt, tôi đi bộ theo đường Lý Thái Tổ nhưng đến vườn hoa tôi muốn đến thì thấy dây căng và hàng rào công an giăng kín, không cho người dân vào vườn hoa. Phía Bờ Hồ, công an, dân phòng cũng giăng ra, chặn không cho dân qua lại một đoạn phố Đinh Tiên Hoàng trước tượng Lý Thái Tổ! Khi biết vườn hoa của thành phố, của nhân dân bị công an chiếm đoạt tổ chức Nhạc Hội Cảnh Sát Thế Giới, tôi nói với viên thiếu tá công an: Vườn hoa của nhân dân, ngày nghỉ sao các anh lại tùy tiện cấm người dân vào vườn hoa? Nhạc hội phải có người xem! Sao lại cấm người dân đến nhạc hội? Viên thiếu tá trả lời: Vườn hoa của nhà lước, nhà lước muốn làm gì thì làm! Nghe tiếng nói ngọng của một hiện thân quyền lực nhà nước, tôi ngán ngẩm không muốn nói gì nữa, đành đi vòng tìm đường ra Bờ Hồ.
 
Quanh Bờ Hồ cũng rải đầy công an sắc phục xanh, sắc phục vàng và dân phòng mặc đồng phục màu xanh cỏ úa như bộ đội thời chiến tranh, mũ mềm, áo blouson nhạt màu, quần thẫm màu. Tôi biết ngoài số công an công khai đông đúc kia còn có rất đông công an chìm lảng vảng! Tàu chiến Trung Hoa tự do xục xạo trên biển Việt Nam, bắn giết dân đánh cá Việt Nam, xua đuổi, bắt bớ tàu thuyền Việt Nam thì không thấy bóng một công cụ bạo lực nào của nhà nước Việt Nam! Giữa cuộc sống yên bình của người dân ở thủ đô văn hiến, giữa mùa thu êm ả sao phải phô trương nhiều công cụ bạo lực nhà nước đến vậy? Cũng những sáng chủ nhật yên bình cách đây mới ít ngày, những người công an, dân phòng này đã dùng số đông hùng hổ xô bắt, tống giam những con dân Việt Nam nồng nàn yêu nước, chị Minh Hằng, chị Bích Phượng, anh Nguyễn Văn Dũng, anh Vũ Quốc Ngữ… Sáng nay họ lại bắt giam cả tượng đài Lý Thái Tổ! Bắt giam cả Hồ Gươm! Bắt giam cả mùa thu Hà Nội!
 
Mùa thu Hà Nội kì lạ, thiêng liêng lắm! Tháng Tám, Mùa Thu năm 1010, vua sáng Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về Đại La. Thuyền định đô vừa về đến bến sông Hồng ở Đại La, nhà vua bỗng thấy từ sương khói mùa thu bảng lảng trên sông Hồng, rồng thiêng bay lên, ẩn hiện trong mây, sáng lòa trong nắng. Từ Mùa Thu đó, Kinh đô nước Đại Việt được mang tên Thăng Long, Rồng Bay Lên. Từ đó, những sự kiện lịch sử sáng chói của nước Đại Việt, của kinh kì Thăng Long – Hà Nội như đều đến vào mùa thu. Hồn đất nước như hiển hiện trong mùa thu Hà Nội!
 
Sáng mùa thu tôi đến Hồ Gươm để cảm nhận tiết thu Hà Nội, để cảm nhận hồn thiêng đất nước nhưng những sắc áo công cụ bạo lực kia đã mang đến cho tôi cảm giác ngột ngạt, bất an và tôi nhìn bầu trời Hà Nội mùa thu cũng không thấy trong xanh nữa!
 
2. Dặm đường mùa Thu
 
Bốn mươi tám tuổi, Nguyễn Khuyến rũ áo từ quan xa lánh chốn quan trường nhiễu nhương của thời nô lệ Pháp thuộc, trở về “Vườn Bùi chốn cũ” đắm mình trong mùa thu đất nước để viết lên “Thu Điếu”, “Thu Vịnh”, “Thu Ẩm”. Phải đến tuổi mùa thu cuộc đời mới giao hòa được với mùa thu đất nước. Nhưng cũng phải có không gian yên tĩnh và sự tĩnh tâm, xa lánh chốn nhiễu nhương mới cảm nhận được cái thăm thẳm của mùa thu đất nước.
 
Hồ Gươm dập dìu của tài tử giai nhân, của văn hiến ngàn năm, của tháp bút viết thơ lên trời xanh, Hồ Gươm của lãng đãng huyền thoại về rùa thần, gươm báu, Hồ Gươm của không gian lịch sử thiêng liêng đã không còn bình yên, thanh thản bởi dây căng cấm đường, bởi bịt bùng sắc áo công cụ bạo lực! Hồ Gươm của sâu thẳm lịch sử, của thanh lịch văn hóa đã trở thành chỗ trần trụi, nhiễu nhương, công sai nghênh ngang, bạo lực thi thố! Tôi tìm đến Hồ Tây.
 
Nhưng Hồ Tây thướt tha bóng liễu rủ xuống mặt hồ không còn nữa! Hồ Tây mênh mang xa hút trong sương khói huyền thoại không còn nữa! Những khối nhà cao tầng trùng điệp như đội quân xâm lược đã hủy diệt gần hết màu xanh quanh hồ và đang ngạo nghễ từ bốn phía xô bồ, ào ạt tiến ra hồ, đã chiếm mất một phần mặt hồ, đã xóa mất cái mênh mang của Hồ Tây rồi, đã giết chết không gian huyền thoại Hồ Tây rồi! Những người nhân danh chính quyền vô sản của giai cấp công nông đã cắt hàng chục hecta đất long mạch Hồ Tây bán cho người kinh doanh trong nước, ngoài nước để họ làm giầu bằng đất thiêng Hồ Tây, để họ mặc sức triệt phá long mạch Hồ Tây, để họ giết chết thiên nhiên Hồ Tây của những đàn sâm cầm, để họ phá không gian huyền thoại Hồ Tây của trâu vàng truyền thuyết! Những người nhân danh chính quyền vô sản của giai cấp công nông đã chia lô đất thiêng Hồ Tây bán rẻ, cấp không cho các quan chức từ trung ương tới địa phương, như trong hội làng thời lý trưởng, chánh tổng người ta chia xôi, chia thịt cho nhau! Để Hồ Tây bây giờ chỉ còn toen hoẻn như chiếc ao làng trong thơ Nguyễn Khuyến!
 
Quan chức quyền cao chức trọng chiếm đất vàng Hồ Tây thì bà hàng nước phận hèn chiếm bãi cỏ đường Thanh Niên bên Hồ Tây và đám người vô công rồi nghề thì kéo đến câu trộm cá dưới hồ! Đường Thanh Niên của tâm tình, của thanh thản, nơi tình yêu đến với tình yêu, nơi con người đến với thiên nhiên nhưng ghế đá ở đường Thanh Niên còn rất ít. Chiếc gãy chân. Chiếc vỡ đôi.
 
Chiếc bị bà hàng nước chiếm để đồ hàng. Chỉ có sẵn những chiếc ghế nhựa màu xanh rải đầy trên thảm cỏ. Muốn được dừng chân thư thả với Hồ Tây, phải xỉa tiền ra để được ngồi trên chiếc ghế nhựa xanh của bà hàng nước! Đường Thanh Niên không còn thảm cỏ nào vô chủ bởi những chiếc ghế nhựa xanh xác định chủ quyền của gần chục bà chủ quán nước thảm cỏ!
 
Đến Hồ Tây chỉ thấy người chiếm đoạt, không thấy người quản lí, chăm sóc! Đó cũng là một sự nhiễu nhương! Hồ Tây huyền thoại đã trở thành chốn nhiễu nhương từ cấp cao đến cấp thấp! Thôi đành tìm mùa thu chốn khác!
 
Tôi đến chùa Bà Đanh ven sông Đáy, bên núi Ngọc, tìm sự yên tĩnh, hoài niệm ở ngôi chùa cổ. Ngôi chùa đã đi vào thành ngữ dân gian về sự vắng vẻ, đìu hiu “Vắng như chùa Bà Đanh” nay cũng không còn yên tĩnh nữa! Những chiếc ô tô kết hoa, những đoàn xe máy rầm rộ nối nhau chở những đôi tân hôn mượn cảnh non nước của chùa chụp ảnh cưới.
 
Tôi về quê nội Thiện Phiến, Tiên Lữ, Hưng Yên tìm cảnh sắc mùa thu quen thuộc “Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt / Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” trên mảnh đất phù sa sông Hồng. Lũy tre, khóm trúc là hình ảnh thân thuộc, cổ điển, là biểu tượng truyền thống của mọi làng quê đồng bằng Bắc Bộ như cây dừa là hình ảnh thân thuộc truyền thống của làng quê Nam Bộ. Khóm trúc nền nã, óng ả, duyên dáng như vẻ đẹp cô gái quê. “Trúc xinh trúc mọc đầu đình / Em xinh, em đứng một mình cũng xinh” (Ca dao). Lũy tre là sự bền vững, thanh bình, là chiều sâu tâm linh của làng quê, là bóng mát trong tâm hồn người dân quê “Tre xanh, xanh tự bao giờ / Từ ngàn xưa đã có bờ tre xanh” (Thơ Nguyễn Duy). Lũy tre, khóm trúc, mái đình, cây đa là môi trường sinh thái của làng quê và cũng là không gian văn hóa, là hồn vía của làng quê. “Qua đình ngả nón trông đình / Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Lũy tre tạo nên chiều sâu không gian và mái đình tạo nên chiều sâu thời gian, tạo nên bề dày lịch sử của làng quê. Nay Thiện Phiến quê nội của tôi không còn một mái nhà tranh, nhiều ngôi nhà mái bằng, nhà lầu mọc lên, nhưng cũng không còn một khóm trúc, một bờ tre, không còn mái đình, cây đa. Cải cách ruộng đất sôi sục rồi hợp tác hóa nông nghiệp rầm rộ phá tan đình chùa, đánh sập quyền uy tôn giáo, san bằng mồ mả làm bờ vùng bờ thửa, hăm hở tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội! Chủ nghĩa xã hội không thấy đâu chỉ thấy bây giờ làng quê trống trải, trần trụi, tênh hênh như không có quá khứ, không có lịch sử! Và tôi thấy những ngôi nhà đúc bê tông mái bằng, những ngôi nhà hai ba tầng lầu tênh hênh, vênh váo kia như những tòa lâu đài xây trên cát!
 
Về thành phố Hải Phòng, nơi tôi đã sinh ra, nơi tôi để lại cả tuổi thơ nghèo khổ nhưng êm đềm, đẹp đẽ, tôi càng thấy thêm những mất mát. Hải Phòng thời tuổi thơ của tôi đẹp lắm. Cái đẹp của thành phố đã định hình một phong cách văn hóa, có bản sắc, có cá tính, có nét độc đáo riêng. Đường phố trật tự, ngăn nắp, sạch sẽ, dào dạt ngọn gió biển. Mùa hè tán phượng vĩ đỏ rực la đà trên mặt nước sông Tam Bạc, la đà trên mái ngói dãy quán bán hoa xế trước nhà hát lớn. Con người có cá tính mạnh mẽ nhưng hiền hòa, lịch lãm. Tôi vẫn nhớ ngày ấy người đi đường gặp đám ma, ai cũng ngả mũ đưa tiễn người quá cố cho đến khi đám ma đi qua. Đó là những năm 1955, 1956 khi chính quyền cách mạng mới về tiếp nhận Hải Phòng thay cho chính quyền cũ và người dân vẫn còn giữ được nếp văn hóa nơi công cộng của một thời đã qua!
 
Bây giờ thành phố mở rộng tới tận núi Phủ Liễn, Kiến An. Nhiều đường phố mới rộng dài. Nhiều tòa nhà mới ngất ngưởng, nghênh ngang. Nhưng nét đẹp của thành phố, bản sắc văn hóa của thành phố lại không thấy đâu! Con trai, con gái thản nhiên nói tục, nói chuyện, nói điện thoại rất to ở chốn đông người, lại còn ngọng nghịu, lẫn lộn l và n nữa! Đường phố ngập rác! Rác trên mặt đường! Rác trong ngôn ngữ! Rác trong âm thanh! Nhiều đường phố trở thành đường một chiều nhưng lưu thông vẫn hỗn loạn, lộn xộn, tranh cướp đường của nhau! Con người trở nên dữ dằn, chỉ một xích mích nhỏ cũng chồm lên lao vào chém giết, thanh toán nhau! Nhìn từng tòa nhà mới xây, cũng có nhiều nhà đẹp nhưng nhìn cả đường phố chỉ thấy sự nhốn nháo, hỗn loạn, nhếch nhác! Chỉ thấy có ông chủ của từng ngôi nhà! Không thấy ông chủ của cả đường phố! Không thấy ông chủ của cả thành phố!
 
Những người ở vị trí ông chủ thành phố nhưng hành xử chỉ là ông chủ gia đình, dùng quyền lực ông chủ thành phố chỉ để vun vén cho gia đình thể hiện rõ trong vụ đất đai ở Đồ Sơn, ở Quán Nam! Dùng quyền lực được phê duyệt, được kí cấp đất cho những người tái định cư, họ đã dành nhiều xuất đất cấp cho con cháu, cho người nhà của họ không có tiêu chuẩn tái định cư, kí cấp đất cho cả những quan chức bề trên có quan hệ lợi ích, quan hệ thăng tiến của họ! Hành xử đó không phải chỉ là tham nhũng của kẻ có quyền mà còn là văn hóa cai trị! Văn hóa cai trị thấp kém thì văn hóa cả xã hội cũng thấp kém! Thước không ngay không thể kẻ được đường thẳng! Đời sống văn hóa của thành phố Hải phòng, của đất nước Việt Nam hôm nay là hệ quả của thứ văn hóa cai trị đó suốt mấy chục năm qua!
 
Những mất mát ở làng quê của ông bà tôi, những mất mát ở thành phố tuổi thơ của tôi cũng là mất mát ở mọi làng quê, mọi thành phố khác trên đất nước này, cũng là mất mát của cả đất nước này! Trên cả nước chỉ thấy những ông chủ của từng gia đình! Không có ông chủ của cả nước! Nước là của chung! Cha chung không ai khóc! Vì thế mà người ta giao cả hàng trăm ngàn hecta rừng đầu nguồn quyết định sự sống còn của đất nước, giao hàng trăm ngàn hecta rừng biên ải phên giậu của đất nước cho người nước ngoài làm chủ! Vì thế mà người ta bỏ mặc biển Đông, biển hương hỏa của cha ông người Việt Nam để lại cho tàu nước ngoài mặc sức vào ra bắn giết dân Việt Nam!
 
Những thành quả của cách mạng Tháng Tám Mùa Thu năm nào, nay như không còn nữa!
 
3. Những số phận mùa Thu
 
Về quê, thấy đứa em con ông chú, một thiếu tá quân đội về hưu đã hơn chục năm, nay có sử dụng internet, tôi có chút an ủi sau nỗi buồn làng quê không còn một bóng tre. Về hưu khi mới chợt đến tuổi năm mươi, đứa em thiếu tá của tôi dành thời gian tự học chữ Nôm và nó đã đọc được bài văn trên tấm bia cổ còn sót lại của dòng họ. Gia phả xưa không còn! Đền, miếu không còn! Mồ mả từ hai, ba thế hệ trở về trước không còn! Cả nhà thờ họ cũng đã tan biến! May còn tấm bia đá diễn giải dòng chảy thời gian của dòng họ Phạm. Dịch văn bia ra chữ viết hôm nay, lại có máy vi tính, máy in, nó lập lại gia phả cả chi họ. Có được điểm tựa của quá khứ, lại có internet nối với cả thế giới, hướng tới tương lai, đứa em tôi sẽ có những nhận thức mới mẻ. Tôi nghĩ thế và để biết nhận thức của nó, tôi liền mở một bài viết của tôi đã đăng trên các trang mạng cho nó đọc. Bài viết mười trang. Mới đọc được ba trang, nó rời màn hình vi tính, bảo: Anh lại viết như giọng điệu Cù Huy Hà Vũ hả? Anh viết giọng đó, em không đọc đâu! Rồi nó gay gắt kết tội Cù Huy Hà Vũ đúng như kết tội của báo Công an, báo Quân Đội Nhân Dân! Vậy đó! Nó dùng internet chỉ để khỏi phải mua báo mà hàng ngày vẫn được đọc báo Nhân Dân Online, báo Quân Đội Nhân Dân Online, báo Công An Online!
 
Dù internet có mở ra cho thằng em thiếu tá của tôi khung trời rộng rãi nhìn ra thế giới để tiếp cận với nhiều sự thật đang bị bưng bít, để nhìn sự việc bằng con mắt của mình, để nhận thức thế giới bằng cái đầu của mình nhưng nó vẫn nhìn thế giới qua khe hở ti hí mà hệ thống truyền thông chính thống hé ra cho nó, nó vẫn nhận thức bằng cái đầu của người khác và nó vẫn vô tư tin cả những sự lừa dối trắng trợn, tin cả vào những nhân cách bỉ ổi đã thủ trong túi hai bao cao su nhầy nhụa mang đến ném vào phòng ngủ khách sạn để hãm hại một tiếng nói trung thực, dũng cảm! Nó vẫn mang niềm tin xưa cũ như tôi đã từng tin! 
 
Một niềm tin xưa cũ khác. Từ Thiện Phiến, Tiên Lữ, Hưng Yên, tôi mượn xe máy về Bằng Giã, Bình Giang, Hải Dương thăm anh bạn lính cùng ở mặt trận Tây Nguyên với tôi thời chiến tranh, anh Đặng Xuân Bách. Mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ, anh Bách không biết cả ngày tháng năm sinh của chính anh. Theo tuổi anh tự khai khi vào bộ đội thì anh hơn tôi một tuổi. Coi như tôi, anh Bách và thằng em chữ Nôm của tôi cùng thế hệ với cuộc cách mạng Mùa Thu và bây giờ cùng đang ở tuổi mùa thu muộn của cuộc đời. Tìm cách ăn gian qua mặt những người khám tuyển nghĩa vụ quân sự, anh mới trúng tuyển, mới chấm dứt cuộc đời ở đợ nghèo đói, tủi nhục. Vào bộ đội, anh tăng thêm gần mười cân và cao thêm gần gang tay mới có được chiều cao của người bình thường như bây giờ. Vì thế hết hạn nghĩa vụ quân sự, anh xin ở lại quân đội rồi hăm hở hành quân vào mặt trận Tây Nguyên. Bị thương, anh được đưa ra miền Bắc. Sau thời gian chữa trị, an dưỡng, những người khác đều nhận tờ giấy giải ngũ về quê. Anh xin ở lại quân đội, làm cán bộ khung của đoàn an dưỡng cho đến khi đoàn an dưỡng giải thể, anh về hưu với quân hàm đại úy.
 
Tôi đã về nhà anh một lần nhưng lâu rồi. Từ khi tôi chuyển vào sống ở miền Nam, chúng tôi chỉ liên lạc với nhau bằng thư từ, sau này là bằng điện thoại. Gặp lại tôi, anh mừng lắm. Trong bữa cơm gà nhà, cá ao tiếp tôi, anh gọi đông đủ gia đình các con đến, anh nói: Gia đình mình được thế này là nhờ ơn đảng, ơn Bác, nhờ sự chiến đấu hi sinh của những người ở thế hệ cha chú các con!
 
Anh giới thiệu về tôi, anh nói về những truyện ngắn của tôi anh đã đọc trên tạp chí Văn Nghệ Quân Đội thời chiến tranh. Anh chỉ vào từng đứa con giới thiệu với tôi. Bốn đứa con trai, đứa nào cũng đã xây được nhà, ở riêng. Có đứa hai vợ chồng đều làm ruộng, có đứa vợ dạy học, chồng công nhân, đều có ruộng đất, có cuộc sống đầy đủ, ổn định! Một người như anh, tứ cố vô thân, không thước đất cắm dùi, nếu không có cách mạng làm sao thoát kiếp suốt đời đi ở đợ! Một người như anh không một ngày đến trường, chỉ nhờ tự học mà biết đọc biết viết, nếu không có cách mạng làm sao anh có thể trở thành sĩ quan quân đội! Vì thế không những anh nhớ ơn mà anh còn nhắc nhở con cháu của anh đời đời ghi nhớ công ơn của đảng, của Bác!
 
Tôi quí anh vì tính ngay thẳng. Anh có thái độ rất rõ ràng, mạnh mẽ với cái xấu. Tuy văn hóa hạn chế nhưng anh ham đọc sách báo và khá nhạy cảm, hào hứng tiếp nhận cái mới. Tôi muốn gặp lại anh để xem trở về làm một nông dân, anh có còn những phẩm chất đó không. Lúc này đã xuất hiện những cái mới có tính cách mạng, rất cần có những người như anh. Nghe anh nói rằng gia đình anh được thế này là nhờ ơn đảng, ơn Bác, tôi lại chạnh lòng nhớ đến một người lính khác, người lính Vũ Cao Quận.
 
Sinh ra trong gia đình tư sản lớn ở Hải Phòng, cậu bé mười ba tuổi Vũ Cao Quận đã háo hức chào đón cuộc cách mạng Tháng Tám Mùa Thu năm 1945 như chào đón bình minh mới của đất nước, chào đón bình minh mới của dân tộc Việt Nam và của chính cuộc đời mình. Cậu hăng hái theo anh, chị đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Anh trai là bộ đội quân giới. Chị gái là quân y sĩ. Năm 1948, Vũ Cao Quận chính thức trở thành người lính cách mạng. “Tôi vào lính tuổi vừa tròn mười sáu / . . . / Đôi chân chiến binh rong ruổi mọi miền / Lửa chinh chiến đốt tuổi xanh tươi đẹp” (Thơ Vũ Cao Quận) Người lính ấy tham gia chiến đấu đánh tan quân Pháp ở Điện Biên Phủ rồi có mặt trong đội ngũ trùng trùng về giải phóng Hà Nội, Hải Phòng.
 
Đi kháng chiến trở về, gia đình tư sản của người lính cách mạng Vũ Cao Quận đã hiến cho nhà nước cách mạng cả dãy nhà mặt trước phố Belgique, nay là phố Lê Lai, Hải Phòng, hiến cả đồn điền hai trăm mẫu đất ở Nho Quan, Ninh Bình. Như mọi trái tim say lí tưởng, Vũ Cao Quận cũng say đắm lí tưởng giải phóng dân tộc của những người cộng sản “Và một ngày kia tôi vào đảng / . . . / Đến với đảng đâu vì Mác Lê nin / Mà giản dị là tấm lòng yêu nước” (Thơ Vũ Cao Quận).
 
Với lí tưởng đó, năm 1964 vừa cưới vợ, trung úy Vũ Cao Quận lại từ biệt người vợ trẻ dẫn đại đội vào mặt trận phía Nam. Suốt cuộc chiến tranh chống Mĩ, Vũ Cao Quận chiến đấu ở Tây Nguyên, mặt trận thiếu thốn, gian khổ, khắc nghiệt nhất trong các mặt trận ở Đông Dương.
 
Nhưng cách mạng vô sản, nhà nước vô sản chỉ tin cậy, ưu ái những người cùng khổ như anh Đặng Xuân Bách bạn tôi. Còn người lính Vũ Cao Quận xuất thân tư sản, thì cách mạng chỉ sử dụng, chỉ khai thác, chỉ tận thu mà không tin! Dù gia đình tư sản ấy đã hiến toàn bộ tài sản cho nhà nước cách mạng! Dù gia đình tư sản ấy đã hiến dâng cho cách mạng cả xương máu, cả mạng sống đứa con ruột thịt! Anh trai Vũ Cao Quận, người lính quân giới được bổ xung cho đơn vị chiến đấu đã hi sinh không tìm thấy xác ở mặt trận Hòa Bình năm 1952! Dù người lính xuất thân tư sản ấy đã hiến dâng toàn bộ năm tháng tuổi trẻ, hiến dâng cả tài năng, sức lực, hi sinh cả hạnh phúc gia đình cho sự nghiệp cách mạng! Dù người lính xuất thân tư sản ấy đã đứng dưới lá cờ cách mạng nắm tay thề tận tụy chiến đấu hi sinh, một lòng trung thành với cách mạng và cuộc đời chiến đấu hi sinh của anh đã chứng minh điều đó!
 
Là đại đội trưởng, người phải chịu trách nhiệm lớn nhất, nặng nề nhất về sức chiến đấu của đại đội, đại đội trưởng Vũ Cao Quận còn có uy tín rất lớn, có nhiều thành tích trong chiến đấu, là tấm gương sáng đẹp trong đại đội nhưng trong các đại hội chi bộ, các tổ đảng đều được cấp ủy thì thầm nhắc nhở: Không được đề cử giai cấp tư sản vào cấp ủy! Thành phần giai cấp tư sản cũng bị gạt ra khỏi mọi cuộc xét khen thưởng, đề bạt! Và người lính Vũ Cao Quận đã mang quân hàm trung úy từ khi tốt nghiệp trường sĩ quan pháo binh về làm đại đội trưởng dẫn đại đội vào mặt trận từ trước khi Mĩ đổ quân vào miền Nam Việt Nam cho đến khi chiến tranh kết thúc, Vũ Cao Quận rời quân ngũ trở về với người vợ cả một thời xuân sắc mòn mỏi chờ chồng nay tuổi xuân không còn nữa! Sự đối xử ấy buộc Vũ Cao Quận phải nhận ra rằng nhà nước này, đất nước này không còn của cả dân tộc Việt Nam nữa mà chỉ còn là của một giai cấp cùng khổ dưới cùng trong xã hội!
 
Trở về tay trắng, người lính già Vũ Cao Quận cùng vợ về ở với vợ chồng người con gái trong căn nhà cấp bốn chưa đến hai mươi mét vuông trong ngõ nhỏ! Tài trí, sức lực, năm tháng quí giá nhất của cuộc đời đã để lại ở những chặng đường bom đạn, sốt rét, kham khổ, trở về nhà với tuổi già, người lính tận tụy Vũ Cao Quận còn bị nhà nước cách mạng vô sản bắt giam tù đày chỉ vì công an đùng đùng vây bắt và tìm thấy những bài viết về dân chủ, về quyền con người trong chiếc túi người lính già Vũ Cao Quận cầm tay! Dân chủ và quyền con người là những giá trị cơ bản để phân biệt xã hội loài người văn minh với thế giới động vật hoang dã.
 
Chỉ có nhà nước xã hội chủ nghĩa mới bắt giam những người giữ những bài viết về những giá trị đó!
 
Cuộc bắt giam trắng trợn, thô bạo, chà đạp lên mọi giá trị mà xã hội dân sự thông thường phải có đã làm cho người lính già Vũ Cao Quận trở nên nổi tiếng. Tôi biết đến bậc đàn anh Vũ Cao Quận vì thế. Từ đó mỗi lần về Hải Phòng tôi đều tìm đến ngõ 246 phố Đà Nẵng, tìm đến niềm kính trọng của tôi.
 
Cuộc gặp đầu tiên của tôi với niềm kính trọng ấy thật xúc động. Bước chân vào gian nhà tuềnh toàng, bếp than tổ ong ở ngay góc nhà phía ngoài và vòi nước rửa ráy ở góc phía trong, tôi thấy người đàn ông già nua, gày guộc, mong manh như hơi thở nhưng gương mặt sáng láng. Nhận ra ngay người cần gặp, tôi liền xưng tên: Em là Phạm Đình Trọng đến thăm anh! Ông reo lên nhắc lại tên tôi rồi tự nhiên nước mắt ứa ra, ông tiến lại, ôm tôi lặng đi khá lâu. Dạo đó ông còn đi lại được, ông còn lên xuống cái cầu thang chênh vênh của gian gác cơi nới làm thêm, lấy tặng tôi hai cuốn sách ông viết, cuốn “Gửi Lại Trước Khi Về Cõi” và cuốn “Cánh Chữ Xổ Lồng”. Tháng mười năm nay về gặp ông thì chính tôi phải ứa nước mắt vì thấy ông không còn đi lại được nữa, chỉ nằm mỏng dính trên chiếc giường đơn bên chân cầu thang như một tia nắng thoi thóp buổi chiều tàn và nghe ông bình thản nói những lời từ biệt cuộc đời!
 
Thế mà mới it ngày trước tôi đang nói chuyện với ông trên điện thoại thì điện thoại cắt rụp! Gọi lại không được. Hôm sau gọi được, hỏi, ông bảo: Những người bạn giấu mặt của tôi đấy! Họ tốt với tôi lắm, có rất nhiều người quan tâm chăm sóc tôi! Riêng về điện thoại cũng có người theo dõi hai mươi bốn trên hai mươi bốn (24/24), hạn chế tôi nói để giữ sức khỏe cho tôi! Nghe ông nói, tôi nghẹn trong ngực, cay cả sống mũi. Người lính già trung thực, tận tụy, đầy công lao nay đã sắp chết mà người ta nỡ xử sự nhẫn tâm, thất đức đến vậy!
 
Tôi, anh Đặng Xuân Bách và người lính già Vũ Cao Quận cùng có một khởi điểm, một cột mốc cuộc đời là một Mùa Thu cách mạng. Tôi và anh Đặng Xuân Bách là thế hệ chào đời vào Mùa Thu cách mạng. Còn người lính già Vũ Cao Quận lại hăm hở bước vào đời từ Mùa Thu cách mạng đó. Cuộc cách mạng Mùa Thu năm đó có làm đổi đời, có cứu vớt được một số ít người như anh Đặng Xuân Bách bạn tôi nhưng đã chà đạp lên số phận nhiều người chân chính khác, như người lính tận tụy nhiều cống hiến Vũ Cao Quận, chà đạp cả một dân tộc văn hiến, làm hủy hoại cả một nền văn hóa có bề dày thăm thẳm!
 
Tôi nhìn hình hài người lính trận mạc Vũ Cao Quận cả một đời chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc như nhìn thấy hình hài dân tộc Việt Nam cả bề dày lịch sử chiến đấu giành và giữ độc lập. Cuộc cách mạng Mùa Thu năm 1945 đâu phải là cuộc cách mạng của chủ nghĩa Mác Lê nin mà là cuộc cách mạng của lòng yêu nước, như con người Vũ Cao Quận “Đến với đảng đâu vì Mác Lê nin / Mà giản dị là tấm lòng yêu nước” và Vũ Cao Quận chính là con người của cuộc cách mạng Mùa Thu đó! Tôi nhìn hình hài Vũ Cao Quận, nhìn một số phận Mùa Thu và chua xót nghĩ rằng cuộc cách mạng Mùa Thu của người lính Vũ Cao Quận thực sự đã bị phản bội rồi!■
 
------------------------------------------------------------------------
* Bài viết nhận được trực tiếp từ tác giả, nhà văn Phạm Đình Trọng. Hiện ông đang sống ở Sài Gòn.
 

Comments

GIÓ GIÓ BẮT ĐẦU ĐỔI CHIỀU

Trong mấy ngày qua tin tức nóng sốt về tình hình Á châu được truyền thông phổ biến khắp nơi: Mỹ chánh thức trở lại Á châu Thái bình Dương. TT Obama tuyên bố “Mỹ trở lại và sẽ lưu lại Á châu Thái bình dương lâu dài vì quyền lợi và một phần Mỹ quốc nằm trong Thái binh dương. Thế kỷ 21 là của Á châu và một Á châu Trật tự, Tự do mới có thể phát triển đồng đều, phồn thịnh và bền vững”. Trước khi đề cập chi tiết, Dân Nam xin nhắc lại quá khứ về hai từ chiến thắng.
Sau 1975 Hà nội hãnh diện khoe khoang rằng cộng sản Việt nam anh hùng, một dân tộc nhỏ bé đã đánh thắng hai cường quốc là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Từ đó, Hà nội đắm chìm trong giấc mơ anh hùng chiến thắng, lên mặt khoe là “đỉnh cao trí tuệ loài người”, v.v. Nhưng một người bình thường, chịu khó để ý một chút thì thấy là anh chàng cộng sản “anh hùng” Hà nội chỉ là người khờ, thích làm anh hùng dại dột, chã thắng ai cả mà thật ra là thua đậm. Thử nêu vài điểm chánh sau:
1. CHIẾN THẮNG
a) Đánh thắng Pháp?
Như tài liệu lịch sử để lại mà Dân Nam có nêu trong mấy bài trước là năm 1945 Nhựt, và tiếp theo năm 1947 Pháp đã đồng ý trả lại độc lập cho Bảo đại. Việt nam đã lấy lại độc lập, thống nhứt mà không tốn giọt máu nào. Nước ta đã lần lượt có hai chánh phủ dân sự cầm đầu bỡi học giả Thủ tướng Trần trọng Kim và kế tiếp là nhà khoa bảng Thủ tướng Trần văn Hữu. Nước ta đâu cần đến HCM và đảng cộng sản mới có độc lập, thống nhứt. Từ đó cho thấy chín năm toàn quốc kháng chiến và trận Điên biên phủ là những trận đánh nướng quân dân vào sự sai lầm, không cần thiết và rất ấu trĩ. Trận Điện biên phủ còn do tướng Tàu La quý Ba chỉ huy và kể từ đó ông Hồ và bộ sậu chóp bu Hà nội đã tự đặt Việt nam vào tay nhà Hán. Ông Hồ và cộng sản Hà nội đã phá hoại hai lần Việt Nam được độc lập thống nhứt mà không đổ máu.
Sự thật quan trọng cần lưu ý là sau Đệ nhị Thế chiến, nước Pháp bị tàn phá nặng nề, tài nguyên quốc gia cạn kiệt và lực lượng quân sư suy yếu. Vì vậy, trong trận Điện biên phủ Pháp có nhờ Mỹ giúp dùng không lực tiếp đánh Việt cộng, nhưng Mỹ bỏ rơi và muốn Pháp phải rút khỏi Việt Nam. Nhờ vậy mà Võ nguyên Giáp mới được Hà nội tôn làm anh hùng. Nếu nước Pháp không bị suy yếu vì thế chiến thứ hai, hoặc nếu Mỹ chịu giúp Pháp dội bom trận Điện biên phủ thì ông Hồ, Võ nguyên Giáp và tuớng tá Hà nội chỉ có đường chết hoặc chạy sang Tàu lánh nạn. Làm gì có được chiến thắng Biên Biên. Bỡi vậy, nhiều người có học Hà nội dù đã nhìn thấy sự thật, nhưng vẫn đánh bóng, tô hồng ông Hồ, Võ nguyên Giáp và các “lão thành cách mạng” Miền Bắc thì chỉ làm trò cười cho người bình thường, có chút kiến thức và hiểu được sự thật lịch sử Việt Nam.
b) Đánh thắng Mỹ?
Từ thập niên 1960, Hoa kỳ rất quan tâm về sự bành trướng chủ nghĩa cộng sản. Muốn tiêu diệt chủ nghĩa này, Mỹ phải theo chiến lược lâu dài, trong đó phải chia khối cộng ra thành từng khúc, và dùng chiến thuật bao vây tiêu diệt từng phần. Giống như hai lần đánh Iraq, Hoa kỳ đã chặt Iraq ra từng khúc rồi dội bom tiêu diệt mà chúng ta đã thấy.
Đối với Việt Nam, Hoa kỳ không chủ trương chiến thắng, không muốn leo thang chiến tranh, chỉ muốn giữ chế độ tự do, dân chủ của VNCH giống như Nam Hàn. Đó cũng là mục tiêu mà sau trận Mỹ và Đồng minh đánh đuổi Bắc Hàn và tàu cộng ra khỏi giới tuyến Nam Hàn thì Mỹ ngưng chiến, không tràn qua giải phóng Bắc Hàn và đánh sâu vào nội địa Trung cộng. Mỹ chủ trương giúp Miền Nam tự vệ mà không cần đánh ra Bắc. Nhưng Hà nội hiếu chiến, được Liên xô và Tàu liên kết hỗ trợ tiến đánh Miền Nam ráo riết. Mỹ buộc lòng phải dội bom Miền Bắc, đẩy Hà nội ngồi vào bàn hội nghị để Mỹ có cớ rút quân, chuẩn bị chiến lược chia hai khối cộng để dễ tiêu diệt phong trào và chủ nghĩa cộng sản. Thế nên ta thấy Mỹ chỉ dội bom Miền Bắc vừa phải, ngắn hạn, đủ buộc Hà nội ngồi vào bàn hội nghị Paris theo kế hoạch Việt nam hóa chiến tranh và rút quân. Nếu Mỹ muốn chiến thắng thì chỉ cần dội bom Miền Bắc liên tục trong vòng vài tuần hoặc cao lắm là hai tháng nữa thì Hà nội chỉ có đầu hàng vô điều kiện, chớ sức đâu mà chịu nỗi bom B 52 hoặc bom đạn của các chiến đâu cơ tối tân khác. Do đó, vỗ ngực khoe chiến thắng Mỹ thì một người biết chút căn bản quân sự và hiểu tiềm lực hai bên, sẽ cười cho Hà nội quá ấu trĩ. Một anh bạn Miền Nam gốc Bắc 54, sau 1975 về thăm miền Bắc đã nói:”Mỹ ngưng dội bom Hà nội đã làm cho một số người Miền Bắc - nạn nhân cộng sản - tiếc nuối, buồn rầu và tức tối là tại sao Mỹ không tiếp tục dội bom cho xong mục tiêu đánh sập cộng sản Hà nội, giúp giải phóng giùm Miền Bắc. Đó là cái không may của dân Bắc và dân Nam”!
c) Đánh thắng VNCH?
Sau Hiệp định Paris, Mỹ bắt đầu rút quân và ngưng mọi viện trợ. Miền Nam không còn nhận được bất cứ sự hỗ trợ nào của Hoa kỳ và thế giới tự do. Nhưng Quân lực VNCH vẫn anh dũng chận đứng nhiều đợt xâm lăng của Bắc Việt, giữ Miền Nam đến 30.4.1975. Trong lúc đó Miền Bắc vẫn nhận được đầy đủ viện trợ từ Liên sô, Tàu cộng và khối cộng Đông Âu. Vì vậy, Hà nội mới đủ khả năng tiếp tục đánh Miền Nam.
Nếu ngay thời điểm 1973, Hà nội không còn nguồn viện trợ nào từ bên ngoài giống như Miền Nam bị Mỹ cúp viện trợ, thì Miền Bắc lấy gì mà đánh? Suốt 20 năm gây chiến, xâm lăng Miền Nam, ông Hồ và cộng đảng Hà nội đã đẩy dân Bắc vào cảnh chết thảm, kinh tế hoàn toàn kiệt quệ. Dân Bắc nghèo đói tơi bời, cơm không đủ no, áo không đủ ấm. Nếu không được Liên xô, Bắc kinh và Đông Âu viện trợ mọi mặt thì Miền Bắc chết đói trước 1970, sức đâu đi đánh Miền Nam. Trong khi đó, năm 1975 Miền Nam vẫn trù phú không thua hoặc hơn hẳn các quốc gia chung quanh như Đài loan, Singapore, Nam Hàn, v.v. Thế nên ngay sau 1975 rất nhiều người cộng sản đã nhận ra thực tế sai lầm lớn của HCM và đảng cộng sản. Họ đã bỏ đảng, quay lại chống đảng như nữ bác sĩ Dương quỳnh Hoa, Nguyễn Hộ, Nguyễn văn Trấn. Phía Miền Bắc có Dương thu Hương, tướng Trần Độ, đại tá Phạm quế Dương, Đại tá Bùi Tín, ông Nguyễn minh Cần, Trần Khuê, Bùi Minh Quốc, Nguyễn khắc Toàn, Hoàng minh Chính, Vũ cao Quận, Hà sĩ Phu, v.v. Chứng tỏ là ngay sau ngày hòa bình, ông Hồ và cái phe giặc cờ đỏ đã thua đậm. Đến độ bà Dương thu Hương đã nói:”phe chiến thắng là lũ man dại, phe chiến bại là người văn minh”. Nữ bác sĩ Dương quỳnh Hoa nói:” Trước 1975, Sài gòn không có thiếu nữ dưới 15 tuổi phá thai. Sau 1975, có nhiều thiếu nữ Sài gòn 13 tuổi phải phá thai”! Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain nói:“Wrong Guy won the War”. Võ văn Kiệt chỉ thẳng Hà nội mắng là:”Cái bọn tả khuynh ngoài đó đã phá nát kinh tế Miền Nam”. Ông Kiệt muốn Hà nội dẹp lễ chiến thắng 30 tháng Tư vì ngày đó “có một triệu người vui thì một triệu người buồn”. Tiếp đến là quí vị trẻ già dân chủ mới xuất hiện như Đỗ Nam Hải, bác sĩ Phạm Hồng Sơn, Huỳnh Việt Lang, Nguyễn tiến Nam, Cù huy Hà Vũ, đồng bào Miền Bắc với giáo dân Thái Hà, cô bé Trịnh Kim Tiến,... bây giờ có thêm cựu đại tá Phạm định Trọng và còn rất nhiều người chưa lộ diện.
Riêng Dân Nam tôi xin nói:” 30 tháng Tư là ngày dân Bắc ra khỏi nhà tù nhỏ Hà nội, để chuyển sang nhà tù lớn Việt nam mà còn bị mang tiếng là xâm lăng, ăn cướp của anh em”.
2. GIÓ BẮT ĐẦU ĐỔI CHIỀU
Trở lại mục tiêu chặt khối cộng ra làm hai để diệt. Đầu thập niên 1970, ngoại trưởng Mỹ Kissinger đi đêm với Bắc kinh, dọn đường cho Nixon thăm Mao, bỏ Miền Nam và Miền Bắc cho cộng sản Tàu. Mỹ o bế Bắc kinh, cấp huy chế tối huệ quốc, được vào WTO, giúp Bắc kinh phát triển kinh tế, giáo dục, kỹ thuật,v.v, đẩyTàu vào vòng tay Mỹ, xa rời Liên xô. Thời điểm đó Liên xô bị sa lầy ở A phú Hãn, tốn kém chiến phí và ngân sách quốc gia bị thâm thủng nặng qua việc chạy đua vũ trang “star war” với Mỹ. Liên xô không còn đủ sức tiếp tục chi viện cho khối cộng Đông âu. Dẫn khối cộng Đông Âu và Liên xô thi nhau sụp đổ dễ dàng mà Mỹ không tốn kém tiền bạc hay giọt máu nào. Chiến lược chia hai khối cộng để đánh sập cái nôi cộng sản Liên xô đã thành công ngoạn mục, ngoài sức tưởng tượng của thế giới.
Sau đó Mỹ rảnh tay, đứng ra giải quyết đám Hồi giáo cựa đoan như Iraq, A phú Hãn, diệt khủng bố Bin Lyden. Tiếp tay Âu châu hạ Libya, hỗ trợ phong trào “hoa lài”, đưa phe Hồi giáo Trung đông, Bắc Phi vào quỹ đạo dân chủ. Phong trào hoa lài sẽ còn tiếp diễn, không lâu nữa chỉ còn Iran là cái gai nhỏ, không đáng ngại. Trong lúc đó, Tàu cộng nổi lên vô trật tự, tham lam, ngang ngược, phách lối, ảnh hưởng lớn và lâu dài đối với kinh tế và an ninh Mỹ và phe đồng minh Á châu. Vì vậy Mỹ phải ra tay, hoàn thành nốt chiến lược chặt cộng ra từng khúc mà diệt sạch. Loại bỏ chủ nghĩa cộng sản còn sót lại của Tàu, Bắc Hàn và Việt Nam. Sau đó cộng sản Cu Ba phải tiêu vong theo.
Mấy ngày qua, Obama thăm Úc, ký hiệp ước quốc phòng, quân Mỹ được phép vào Bắc Úc, tàu chiến kể cả tàu nguyên tử Mỹ được vào cảng Tây Úc. Úc sẽ bán Uranium cho Ấn độ, đưa Ấn vào quỹ đạo Úc – Mỹ. Miến điện hủy bỏ kế hoạch xây đập thủy điện Myitsone đã ký với Tàu, bắt đầu tách Tàu cộng ra xa. Tân Bộ trưởng quốc phòng Miến qua thăm Việt Nam đầu tiên mà không cần đi chầu Bắc kinh. TT Obama đã điện thoại trực tiếp cho bà Suu Kyi và sẽ gởi ngoại trưởng H. Clinton qua thăm Miến điện. Bà Suu Kyi sẽ trở lại chính trường. Trong mấy năm qua ta thấy tình trạng liên minh ngầm của Hàn quốc, Nhựt, Úc, Ấn, Singapore, Thái lan, Phi luật tân càng ngày càng gần hơn. Singapore chấp thuận cho Hoa kỳ đưa tàu chiến vào cảng. Bà H Clinton cam kết giúp Phi luật tân vụ tranh chấp Hoàng sa. Obama một mặt khen “Trung cộng trỗi dậy rất tốt, giúp 1 triệu người Hoa trở thành giàu có”. Nhưng ngay sau đó thẳng mặt dạy Bắc kinh rằng “chế độ độc đảng không có tự do sẽ hạn chế sự phồn thịnh đồng đều cho nước Tàu. Hành động chơi ngang, không tôn trọng luật quốc tế làm cho Trung quốc vẫn còn bé, chưa đủ lớn. Thế kỷ 21 là của Á châu Tự do, Nhân quyền, thịnh vượng đồng đều và lâu dài, v.v”. Báo chí thế giới đã nói nhiều, không cần lập lại ở đây.
Tổng kết tình hinh chung, ta thấy phía bắc và tây bắc, Trung cộng đối diện với Nga, Tạng, Mông, Mãn, Hồi, Thổ nhĩ Kỳ (đứng về phe Hồi giáo và là thành viên Nato) và Ấn độ. Phía nam và đông nam có Úc, Tân tây Lan, Thái lan, Miến Điện, Singapore, Phi luật Tân, Nhựt, Hàn quốc. Những vùng hoặc quốc gia đó chẳng ai ưa Tàu cộng. Kể cả dân Phi châu cũng ghét đám Tàu dùng tiền hối lộ, bành trướng, xâm lăng. Hàng hóa, thuốc men và mọi sản phẩm tàu có chất lượng kém, nhiễm độc, giết dân thế giới. Chánh phủ Tàu, kềm giữ đồng nguyên thấp giá để trục lợi, giết kinh tế Mỹ và các nước khác. Vì vậy Mỹ đã trở lại cầm đầu đồng minh Á châu Thái bình dương, loại chủ nghĩa cộng sản và chánh phủ độc đảng Tàu qua sự bao vây bỡi các nước vừa nói. Nếu Tàu đánh Mỹ, hàng hóa Tàu sẽ mất thị trường, trong nước nổi loạn cộng thêm Tạng, Mông, Hồi, Mãn nổi dậy, thì chế độ cộng sản Tàu sẽ sụp rất nhanh. Nếu không đánh Mỹ, thì chỉ có con đường tự thay đổi chế độ, cho tự do đa đảng đa nguyên, giống Mỹ và thế giới tự do. Như Nga và khối Đông Âu đã làm.
Riêng Việt nam thì sao? Theo Mỹ mất đảng, theo Tàu bây giờ càng chết thêm. Thôi thì thà theo Mỹ sớm, tự ý đổi màu như khối Liên xô, Đông Âu sẽ lợi hơn.
Gió bắt đầu đổi chiều, vô cùng thuận lợi và là cơ hội tuyệt vời nhứt cho Phong trào dân chủ trong nước tiến lên.
Cầu ơn trên giúp Hoa kỳ và phe đồng minh hoàn thành mục tiêu chót loại bỏ cộng sản Tàu. Thúc đẩy Việt nam thức tỉnh, vứt bỏ bộ tử: Hồ, cờ máu, đảng và nhà nước Việt cộng, đem lại Tư do, Dân chủ, Đa đảng, Đa nguyên như VNCH ngày xưa. Hoa kỳ sẽ phải làm việc này để lấy lại danh dự cho nước Mỹ và cũng để dạy Hà nội bài học rằng:
”Năm 1975, Hoa kỳ đã biếu Hà nội cơ hội bằng vàng. Để Hà nội thực thi Hiệp định Paris, buông súng xuống, ôm lấy Miền Nam, giống như hai phe Nam Bắc Mỹ đã làm năm 1865. Hoa kỳ và thế giới Tự do giúp Việt Nam phục hưng từ ngày đó, thì Việt nam đã cất cánh như Hàn quốc, Đài loan, Singapore. Được Mỹ và thế giới tự do tin cậy, bảo vệ, thì đâu bị nhà Hán ăn hiếp thảm thương. Bây giờ mất công tụi tôi - Hoa kỳ - phải trở lại giải phóng gìum cái đầu dại dột của các anh và dạy các anh bài học ai thắng ai?”
Đau thật, Việt nam của tôi ơi !
Dân Nam
Hải ngoại, 19 Nov 2011

Gởi ông Trọng và bà con trong nước

Có lẽ ông Trọng và một số bà con trong nước đã biết là các quốc gia tự do, văn minh đều áp dụng thể chế dân chủ với tam quyền phân lập: Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp. Hành pháp (chánh quyền) là cấp thừa hành nhỏ nhứt.
Mỗi khi chánh quyền cần làm viêc gì đều phải xin ý kiến dân, thông qua quốc hội là cơ chế cao nhứt. Thí dụ nhỏ như muốn đặt tên mới hay đổi tên một con đường, chánh quyền địa phương phải đưa ra một số tên tiêu biểu cho dân góp ý và chọn lựa. Sau đó các Nghị viên Hội đồng Thành phố (HĐTP) hội hợp, bàn cải và biểu quyết chấp thuận. Việc xây dựng nhà cửa, cơ sở công tư cũng vậy. Bản vẽ phải nạp trước cho HĐTP duyệt, xem coi có đạt mọi tiêu chuẩn về xây dựng, hợp với môi trường, môi sinh không. Nếu đạt mọi yêu cầu thì HĐTP phải qua khâu xin ý kiến dân. Bản vẽ phải được gắn trong khu đất sắp xây và gởi đến dân cư chung quanh để dân có ý kiến. Nếu có cư dân phản đối, bản vẽ phải được sửa lại cho phù hợp với các tiêu chuẩn gia cư chung quanh. Sau đó HĐTP mới dám cấp giấy phép xây dựng. Nếu xây cơ sở lớn thì báo chí tự do tham gia đưa tin tranh luận. Sự tranh luận đúng sai, lợi hại diễn ra hàng năm chưa xong, đôi khi dự án bị hủy bỏ luôn. Chuyện nhỏ xíu như cửa sổ trên lầu không được xây thấp để tránh nhìn xuống sân sau nhà bên cạnh. Bảo vệ nguyên tắc công bình, kính trọng sự riêng tư, thoải máy cho mọi người. Sân sau là nơi gia đình cuối tuần thường tụ hội, sinh hoạt ăn uống, chung vui mà hàng xóm không thể dòm ngó, theo dõi làm phiền. Một thí dụ nữa là tại góc ngã ba đường, có gắn tấm bảng nhỏ: kể từ 4 giờ chiều cấm quẹo trái (hoặc phải). Không may, tấm bảng bị tàn cây che phủ, người lái xe không thấy rõ quẹo vào, xảy ra tai nạn. HĐTP phải đền bồi cho hai bên, bên bị và bên gây ra tai nạn, bỡi lỗi của HĐTP là không chu toàn trách nhiệm cắt bớt cành cây, để mọi người thấy rõ tấm bảng.
Những năm đầu thế kỷ 20, nước Úc bắt đầu hình thành thể chế Liên Bang, tương tự như Liên bang Hoa kỳ. Úc có hai thành phố lớn là Sydney và Melbourne. Thời điểm đó Melbourne lớn nhứt được xem là thủ đô, được các Tiểu bang Tây Úc, Nam Úc và Victoria đồng thuận. Nhưng TP Sydney có trước Melbourne, được thêm sự hỗ trợ của Brisbane và News South Wales muốn thủ đô đặt tại Sydney. Để tránh việc phân tranh, hai thành phố Melbourne, Sydney và toàn dân Úc đồng thuận tìm một vùng đất mới nằm giữa hai thành phố lớn để xây dựng thủ đô, hóa giải được sự tranh chấp và tiện lợi cho việc di chuyển giữ các vùng đến thủ đô. Đó là lý do Thủ đô Cnaberra được hình thành năm 1913. Quốc hội đầu tiên nhóm họp tại Melbourne và sau đó chuyển về thủ đô Canberra.
Tương tự như vậy, thời kỳ 1945 (chánh phủ Trần trọng Kim) và lúc Pháp trả độc lập cho Bảo Đại năm 1947, Việt nam theo chánh thể quân chủ lập hiến như Nhựt, Anh, Thái lan. Nước Việt được chia thành 3 kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Mỗi kỳ có khâm sai đại thần, đó là yếu tố Liên bang rất tốt giống như Liên bang Mỹ, Úc. Thủ đô Huế nằm giữa hai thành phố lớn, vừa công bình, tương kính vừa tiện lợi cho hai đầu đất nước. Cờ vàng 3 sọc đỏ là biểu tượng cho da vàng, máu đỏ. Ba sọc đồng đều, nằm song song, tượng trưng cho ba kỳ đồng quyền, tương kính giữa ba anh em Bắc,Trung, Nam, hợp nguyên tắc tam quyền phân lập. Vì vậy mà cố TT Ngô đình Diệm chọn Sài gòn làm thủ đô, công bình tương kính giữa Huế và Cần Thơ; tiện lợi cho Quãng Trị và Cà Mau. Khi VNCH được hình thành, có một số nghị đổi cờ, ông Diệm cho tự do vẽ cờ mới. Hơn 50 bản vẽ được đề cử, báo chí và dân Miền Nam tham gia tranh luận. Sau cùng chỉ có cờ vàng ba sọc đỏ mang đầy đủ ý nghĩa và hợp mọi tiêu chuẩn với thể chế cộng hòa, lấy nhân bản, tự do, dân chủ làm gốc. Ông Diệm là người thanh liêm, được giáo dục đàng hoàng và hiểu rõ lịch sử Mỹ và thế giới tự do, nên ông Diệm quyết định theo ý dân, giữ cờ vàng ba sọc đỏ làm quốc kỳ VNCH. Ngày nay, người Mỹ, Úc , Canada, Đức, v.v hiểu thêm nội tình Việt Nam, các chánh quyền đó công nhận cờ vàng, cho phép treo tự do, còn xem 3 sọc đỏ là yếu tố của Tự do, Dân chủ, Nhân quyền là cốt lõi của Liên bang với tam quyền phân lập.
Qua phần trên, có lẽ ông Trọng và bà con trong nước, nhứt là bà con Miền Bắc cũng thấy việc đổi tên thành phố Sài gòn thành ra TP HCM, là một cái tát nẩy lửa vào mặt toàn thể dân Miền Nam. Việc thay tên đường ở Sài gòn với những tên cộng sản đã đánh giết, ăn cướp và đày ải dân quân Miền Nam là sỉ nhục cho cả Miền Nam. Đặt thủ đô ở Hà nội vừa nguy hiểm vì quá gần tàu cộng, vừa mất tương kính vùng miền, tạo thêm thống khổ cho dân Nam mỗi lần có việc phải ra thủ đô, còn gây tốn kém và mất thì giờ cho viên chức mọi cấp phải bay ra Hà nội hội họp, làm việc.
Qua thực tế trên, trong bài vừa rồi tôi đã mời gọi Hà nội nên sớm thực hiện vài điểm quan trọng (xin nhắc lại) như:
- Trả lại tên TP Sài gòn cho Miền Nam.
- Cho chỉnh trang mộ phần ông Ngô đình Diêm và nghĩa trang Quân đội VNCH. Cho khắc cờ vàng trên bia mộ, xây dựng kỳ đài với cờ vàng, như phe thua Trận Nam Mỹ đã tự do làm.
- Bỏ ngày lễ “chiến thắng” 30 tháng tư, vì chỉ làm nhục cho cả hai miền. Bỡi trận chiến đó là trận chiến điên khùng, dại dột nhứt, huynh đệ tương tàn, cả nước chết thảm, chia lìa nghèo đói, còn mất dần đất nước và chủ quyền vào tay nhà Hán. Năm 1975, Miền Nam bại trận, khóc vì bao nhiêu công lao tạo dựng Miền Nam trù phú, tự do, văn minh, bổng chốc tiêu tan. Miền Bắc thắng trận cười to, nhưng nhìn lại thì hỡi ôi, đói, nghèo, chết thảm, tụt hậu tận cùng đáy vực, bị vòng kim cô siết trên đầu biết đến ngày nào mới tháo ra được để tự giải phóng. Hai anh em Nam Bắc quá đau, quá khổ, quá nhục vì ông Hồ và cộng sản thì còn gì nữa mà ăn mừng “chiến thắng”!
- Chôn ông HCM để cho ông ấy yên nghỉ, bớt tốn kém vô ích và cũng để chôn chặt Mùa Thu Tội lỗi đã gây bao tang tóc cho Việt Nam.
Bố ông Hồ là quan lại nhỏ triều Nguyễn, say rượu đánh chết người, bị tội và bị đuổi việc. Ông Hồ kém học (chỉ lớp 7),nhà nghèo, xuống tàu Pháp làm bồi kiếm cơm, xin học trường bảo hộ để ra làm quan cho Pháp, nhưng bị Pháp từ chối. HCM ôm hận, mang chủ nghĩa cộng sản và cờ đỏ chư hầu Mao về trả thù đất nước, giết hại đồng bào.
Mao trạch Đông là nông dân, thất học, cuồng dâm, ở dơ cả tuần không tắm rửa. Mao ôm chủ nghĩa cộng sản vào, giết dân, hại nước. Năm 2010 GDP per capita của Tàu cộng là 4.393 USD so với Đài loan khoảng 37.000 USD.
Đó là thất bại chua cay của hai con người lãnh tụ cộng sản chỉ biết giết dân, làm cho quốc gia nghèo đói.
Mời xem thêm tài liệu:
1) Du Tử Lê với Ký Giả Đinh Quang Anh Thái về những nhân vật dân chủ gốc cộng sản trong nước.
http://www.youtube.com/watch?v=i7Hyv_QcriY&feature=related(1.8.2011)
http://www.youtube.com/watch?NR=1&v=ocHxOehTGoM (25.12.2010)
http://www.youtube.com/watch?v=XF4gNj3L09U&feature=related (1.1.2011)
Dân Nam
Hải ngoại, 17 Nov 2011

Gởi ông Trọng

1. Bài viết rất hay. Trong Nam chúng tôi có nghe tiếng những người như nhóm Nhân văn giai phẩm, phe xét lại hay sau này như tướng Trần Độ, ông Vũ cao Quận, v.v đã tham gia “cách mạng mùa thu” là vì lòng yêu nước. Tiếc là quí vị đó đã bị HCM và những người yêu nước mù quáng tuyên truyền rằng:”Độc lập dưới sự bảo hộ của Nhựt, Pháp chỉ là độc lập bù nhìn, làm tay sai, đầy tớ cho quân phiệt hay thực dân, đế quốc, v.v”. Thế nên họ đã sai lầm đi theo “cách mạng mùa thu”, đem lại bao tai ương cho xứ Việt.
Thời kỳ đó, các quốc gia nhược tiểu chung quanh Việt Nam khôn hơn. Khi được thực dân, đế quốc trao trả độc lập thì họ vui mừng nhận lấy ngay. Kế tiếp là hợp tác, học hỏi các quốc gia “thực dân”, “đế quốc” cũ để cầu tiến, tái thiết đất nước sớm. Sau cùng các quốc gia đó đã được hoàn toàn độc lập, thống nhứt mà không tốn giọt máu nào. Lại còn được canh tân sớm. Chi có ông Hồ và đảng cộng sản thích làm “anh hùng”, chê hai lần độc lập,thống nhứt, không đổ máu mà Nhựt trao trả thời 1945 với chánh phủ Trần trọng Kim và năm 1947 Pháp trao trả độc lập cho Bảo Đại.
Có lẽ dân Việt nói chung và Miền Bắc nói riêng yêu nước quá độ, sanh ra bảo thủ, đưa đến tự hào và tự kiêu mù quáng. Lúc nào cũng sống với huyền thoại đầy mộng mị Rồng Tiên, Rồng bay, Hoàn kiếm,Thánh Gióng, cụ rùa v.v , xa rời thực tế, phản khoa học. Cộng thêm quá khứ anh hùng, tự mãn thời xa xưa chống Nguyên, Mông... tôn thờ lãnh tụ một cách quá độ, tự ru ngủ mà quên nhìn lại mình và thế giới bên ngoài hầu sửa đổi, học hỏi, cầu tiến. Đó là lý do, vua Tự Đức bác bỏ cơ hội canh tân như nước Nhựt đã khôn ngoan mở rộng cửa giao thương, học hỏi thế giới bên ngoài thời cuối Thế kỷ Mười chín. Đến thế kỷ 20, ông Hồ và cộng sản Miền Bắc cũng phá bỏ mọi cơ hội độc lập, thống nhứt, canh tân không đổ máu. Bây giờ là thế kỷ 21 Miền Bắc vẫn bảo thủ, tự mãn, ôm lấy quá khứ, tôn thờ lãnh tụ, ca tụng “anh hùng” để bảo vệ quyền lợi riêng. Miền Bắc lạm phát “anh hùng” quá nặng, kể cả “anh hùng” tưởng tượng Lê văn Tám, vì vậy đất nước mới tan hoang.
2. Tôi nghe trong nước đang đánh bóng xác ông Hồ thành “minh triết”. Tôi thấy tội nghiệp cho ba ông Tưởng giới Thạch, Lý thừa Vãng và Lý quang Diệu chẳng có được “cách mạng mùa Thu” hay “minh triết” như HCM. Riêng ông Tưởng giới Thạch còn bị Mao xếnh xáng đánh thua chạy trối chết. Nhưng 3 ông đó suốt đời biết yêu nước, thương dân, với kết quả như sau:
- Năm 1950 Đài loan không có kinh tế. Năm1960 lợi tức đầu người USD170 (thua Miền Nam lúc đó). Năm 2010 GDP per capita khoảng USD37.000/năm. Dự trũ ngoại tệ 400 tỉ USD.
- Năm 1954 kinh tế Nam Hàn (Hàn quốc) thua xa Miền Nam lúc đó. Năm 2010 GDP per capita khoảng USD31.000/năm. Dự trữ ngoại tệ 311 tỉ USD.
- Năm 1959 Singapore được tự trị, một quốc gia nghèo, nhỏ bé, thiếu tài nguyên, lúc đó thua Miền Nam mọi lãnh vực. Năm 2010 GDP per capita $43.000/năm. Dự trữ ngoại tệ 300 tỉ USD.
- Riêng HCM cùng với cái nôi “anh hùng” Hà nội và cái “minh triết” (thổ tả) của ông ấy thì chỉ lo đánh giết, ca tụng chiến thắng, làm chết sơ sơ độ 4 triệu người. Tổng cộng có đến10 triệu vừa chết vừa thương tật. Năm 2010, GDP per capita của VN khoảng USD1200. Dự trữ ngoại tệ 13 tỉ USD (nợ nước ngoài 32,5 tỉ USD).
3. Trong bài viết trước của ông (http://www.rfavietnam.com/node/795), tôi quên gởi cho ông tài liệu về lá cờ, khu nghĩa trang, viện bảo tàng chiến tranh mà phe Nam Mỹ thua trận được tự do lưu giữ, xây dựng theo ý của họ. Điểm đặc biệt là tử sĩ phe Nam Mỹ thua trận còn được cải táng chung với phe thắng trong nghĩa trang quốc gia Arlington gọi là Confederate Section. Kèm các trang mạng sau đây để có thêm tư liệu.
4. Ông đang sống ở Miền Nam, có lẽ đã hiểu Miền Nam từng có 20 năm được tự do, dân chủ (dù chưa hoàn hão) và thịnh vượng, trên chân nhiều nước chung quanh. Đất Miền Nam bằng phẳng, rộng mở bao la, dân Nam hấp thụ văn minh mới của đồng bằng nên hiền hòa, dễ tánh, rộng rải, thẳng thắn và chân thật, giống như dân Mỹ, Úc, Canada. Miền Bắc đất hẹp, người đông, bao phủ bỡi văn minh lũy tre làng, có cái đẹp của quang cảnh hùng vĩ, nhưng có cái chật hẹp và cổ xưa của lũy tre bao phủ. Tầm nhìn bị hạn chế trong lũy tre, đình làng, cây đa, xóm cũ, giống như dân Anh, dân Pháp rất bảo thủ, vì đất đai chật hẹp. Tôi không có ý chê hay so sánh, nhưng ý của tôi là giới quân nhân hoặc cựu quân nhân gốc cộng sản Miền Bắc vào Nam sống, hãy lấy cái văn minh đồng bằng rộng mở, hiền hòa, thẳng ngay của Miền Nam để kêu gọi Hà nội:
- Trả lại tên TP Sài gòn cho Miền Nam.
- Chôn HCM cho ông ấy được yên nghỉ, xóa đi quá khứ sai lầm đau thương. Xã hội văn minh, không ai ướp xác xây lăng. Việt nam quá nghèo mà lăng mộ, tượng đài khắp nơi, tốn kém hết sức vô ích. Trong lúc đó cầu tiêu công cộng quá ít và quá dơ. Thế giới nhìn vào đó bịt mũi, chê bai.
- Cho tự do chỉnh trang lại nghĩa trang Quân đội VNCH (Biên Hòa), kể cả mộ phần hai ông Diệm, Nhu và mồ mã của liệt sĩ Miền Nam. Trên mộ bia, được tự do khắc cờ vàng ba sọc đỏ. Trước cổng nghĩa trang cho xây kỳ đài treo cờ vàng 3 sọc đỏ. Giống như phe Bắc mỹ thắng trận đã để cho phe thua trận tự do xây dựng, tưởng nhớ công lao và sự hy sinh của những người nằm xuống. Trước 1975, người cộng sản Miền Nam chết đều được chánh phủ VNCH cho chôn cất tử tế, thân nhân được tự do lấy xác về chôn hoặc cải táng theo ý muốn. Mộ phần của ông Nguyễn sinh Sắc là bố ông Hồ, vẫn được cố TT Ngô Đinh Diệm cho chính trang và chánh phủ VNCH luôn luôn bảo vệ đàng hoàng.
- Xóa bỏ lễ ăn mừng chiến thắng 30 tháng tư. Biến ngày đó thành ngày tang chung của dân tộc. Mọi người đi cúng mộ tưởng nhớ đến người chết. Giúp con cháu sau này tránh cảnh huynh đệ tương tàn. Năm 2006, ông Võ văn Kiệt đã từng thẳng thắn phê bình cái đám tả khuynh Hà nội đã phá nát kinh tế Miền Nam, với câu nói đại ý ngày chiến thắng trong Nam “có một triệu người vui, nhưng cũng có một triệu người buồn”, để ám chỉ cái ác và cái độc kéo dài quá lâu của Hà nội.
Trả lại danh dự cho dân quân Miền Nam là bước khởi đầu cho tiến trình dân chủ hóa VN được xảy ra tốt đẹp. Hy vọng, Hà nội và cả Miền Bắc nên thức tỉnh sớm. Để kết thúc, mời ông Trọng nghe bài Mùa Thu Chết (Phạm Duy), mà anh em trong Nam hay đùa thêm câu kết:
Mùa thu đã chết, đã chết rồi........cho chết luôn!
Chúc ông Trọng chân cứng đá mềm, bước thêm bước nữa, để dân Nam thấy ông là người Miền Nam tự do, như họ đã từng chào mừng, đùm bọc hàng triệu bà con Miền Bắc tự do năm 1954.
Dân Nam
Hải ngoại, 14 Nov 2011

old idea

Tôi rất xấu hổ khi là người Việt Nam !

Bài viết quá hay, quá thật !

Nhà văn Pham đình Trọng sẽ sống mãi trong lòng dân tộc Việt vì ông không u mê , sợ sệt . Ông đã dám nói lên sự thật và chân lý . Không như đa số cán bộ , bộ đội , đảng viên tầm thường khác mà tầm nhìn hạn hẹp ,chỉ ích kỷ bản thân và gia đình , đựoc bát cơm hằng ngày là đã sung sướng, toại nguyện rồi , ai chết mặc bay ! như 1 người bạn của ông vậy.

VH

Nhớ lại hồi còn chiến tranh, mấy thằng biệt kích, gián điệp của chính quyền Sài Gòn xâm nhập bằng đường không, đường biển, đường bộ ra miền Bắc. Dù chưa bị lộ mặt, nhưng vì thái độ lấm la lấm lét và cách nói năng cùng với hành tung bất thường của chúng đã tự tố cáo chúng. Nhờ vậy mà dân chúng nghi ngờ, phát hiện và báo cho công an, quân đội, dân quân, tự vệ tóm cổ bọn chúng đưa ra tòa và cho vào tù.
Ông Phạm Đình Trọng nay cũng giống như bọn biết kích, gián điệp của chính quyền Sài Gòn hồi còn chiến tranh thâm nhập ra miền Bắc vậy. Ông Trọng cũng giống như người đã hoặc đang làm việc phạm pháp. Người làm việc phạm pháp thì nhìn ai cũng thấy sợ, cũng ngĩ rằng họ sẽ phát hiện ra mình và bắt vào tù.
Vì vậy ông Trong nhìn thấy công an là ông ta sợ, chứ người bình thường thì có ai sợ công an đâu, ở những nơi an ninh có vấn đề thì càng có nhiều công an người dân càng yên tâm.

Ông Trọng là cựu Đai tá !

của miền Bắc VC đấy , Cộng con ngu ạ !

Bài viết quá hay

Đây là một bài viết quá hay ,công phu và làm cho những người ở phương Nam như chúng tôi chưa từng tới Bắc cũng cảm nhận được cái không khí Thu của đất Bắc .
Cuộc chiến t̉ương tàn ném không biết bao nhiêu thanh niên của cả hai miền Nam Bắc vào khói lửa hai bên bờ Vĩ Tuyến Mẹ khóc con Vợ khóc chồng, nước mắt đó có thể chảy thành giòng suối
Giang Sơn Thống Nhất. Nói cho văn vẻ ai cũng biết đây chỉ là ván bài của Tàu Cộng và Nixon Miền Nam bị bán đứng. Những người trong Nam như chúng tôi chỉ nhìn thấy những người Phương Bắc không khác chi loài "thú hoang" . Tôi thành thật xin lỗi vì lúc đó không thể có cái nhìn nào khác hơn.Tôi vừa ở tuổi ba mươi trên tay một nách ba đủ́a con dại ,sau khi thu hồi đẩt đai, nhà cửa hai ngày tôi nhận được giấy triệu tập đi kinh tế mới, 
hai ngày tôi bị gọi lên Ủy Ban Nhân Dân Phường kí giấy giao căn nhà cuối cùng là tài sản của đại gia đình tôi. Chồng tôi đi vào trại cải tạo không biết bao giờ về. Đó là sự trả thù hèn hạ và bỉ ổi nhất đã làm cho Người Phương Nam nhìn Người Phương Bắc với đôi mắt oán thù .
Người Phủỏng Nam cúi đầu nhẫn nhịn kẻ Phương Bắc đắc thắng hung hăng tràn ngập .Cuộc chiến tương tàn qua đi Cuộc chiến ý thủ́c hệ kéo dài dai dẳng.
Dần dần nhủ̃ng ngủỏ̀i Phủỏng Bắc đả hiểu đủọ̉c rằng họ đả bị lủ̀a vào cuộc chiến vô nghỉa chỉ vì con ngủỏì mà họ đủỏc̣ dạy dỗ tủ̀ thỏì thỏ dại kia chỉ là con ngủỏ̀i tầm thủỏ̀ng nhất độc ác nhất chỉ vì chút tham vọng điên cuồng y đả xô đẩy cả đất nủỏ́c dân tộc VN vào binh đao khói lủ̃a
Bây giỏ̀ y nằm đó thân xác thối rủ̃a hàng năm phaỉ tu bổ cho y biết bao nhiêu tiền của để gìn giủ̃ cho y đủ̀ng mục nát mà biết bao nhiêu trẻ em không đủọ̉c có cây cầu bắc qua bỏ̀ sông để đi học .Lỏ́p hậu dụê của y trong cỏn nguy
khốn vì càng ngày ngủỏ̀i dân càng hiểu biết thêm thế nào là THIÊN ĐỦỎNG CS thì bọn chúng lại bày thêm trò mỏ́i .Xây tủọ̉ng đài Mẹ VN Anh Hùng .
Chúng đang bị mắc vào cái bẫy do chính chúng giăng ra.Nói nhủ Anh Hà Sĩ Phu "tụ̉ đóng củ̉a đốt nhà"
Tôi nói có thể không ăn nhập gì vỏ́i đề tài của Tác Giả Điều tôi muốn nói ỏ̉ đây sụ̉ thống nhất đất nủỏ́c giỏ̀ mỏ́i đang hình thành ,nhịp cầu Hiền Lủỏng nối hai bỏ̀ Nam Bắc không phải do công lao của Đoàn Quân Nam Tiến mà nối liền đôi bỏ̀ Bắc Nam là nhũng baì viết có ý nghĩa đủa lại sụ̉ cảm thông và nối hai bỏ̀ vĩ tuyến gần nhau
Một lần nủa tôi chân thành cám ỏn tác giả đả cho tôi nhịp cầu thân aí để bủỏ́c qua bên kia bỏ̀ Phủỏng Bắc
trân trọng
nguyễn thị quỳnh hủỏng

No comments:

Post a Comment