Tuesday, 31 July 2012

Tuyên truyền

Mục lục

*

Tuyên truyền là hành động truyền bá thông tin với mục đích đưa đẩy thái độ, suy nghĩ, tâm lý và ý kiến của quần chúng theo chiều hướng có lợi cho một phong trào hay tập đoàn[cần dẫn nguồn], thường lồng sau mục tiêu chính trị[cần dẫn nguồn]. Thông tin tuyên truyền có thể không thực, hoặc có thể có thực nhưng được thổi phồng để làm nổi bật mục đích và đồng thời có thể cố tình che dấu một số dữ kiện liên hệ nhưng phản tác dụng khác (tức là nói láo bằng cách giấu một phần của điều có thực).
Mục tiêu tối hậu của tuyên truyền hiện đại không dừng lại ở thay đổi suy nghĩ hay thái độ của quần chúng, mà cần phải tạo hành động trong quần chúng. Tuyên truyền không chỉ lôi kéo cá nhân ra khỏi sự tin tưởng cũ, mà cần phải làm cá nhân đó tin mù quáng vào suy nghĩ mới và đưa đến hành động có lợi cho thế lực tuyên truyền. Cá nhân bị tuyên truyền sẽ mất khả năng lựa chọn và phản xạ tự nhiên, và từ đó sẽ làm những hành động với sự tin tưởng không cần bằng chứng cụ thể.[1]

Các loại tuyên truyền


Buổi diễn binh quân đội Đức Quốc Xã tại Nürnberg 1935
Tuyên truyền được dùng trong những mục đích: [cần dẫn nguồn]
  • Nâng cao ủng hộ của quần chúng:
    • Quảng cáo đề cao cá nhân hay tập đoàn
    • Giải thích những hành động của cá nhân hay tập đoàn
  • Hạ thấp đối phương:
    • Gợi nỗi lo sợ hay lòng căm phẫn của quần chúng về đối phương
    • Bôi nhọ đối phương
Đối tượng của tuyên truyền là quần chúng, nhưng phải là quần chúng có văn hóa và khả năng suy diễn. Tuyên truyền sẽ không có hiệu nghiệm nếu đối tượng thiếu học thức. [1] Những phương tiện tuyên truyền gồm có:
  • Tin đồn truyền miệng
Năm 1927 Harold Lasswell, một trong những nhà nghiên cứu về tuyên truyền đầu tiên, định nghĩa về tuyên truyền là "mục đích duy nhất là điều khiển ý kiến bằng biểu tượng, hoặc tuyên bố mạnh dạn nhưng không chính xác, bằng truyện kể, tin đồn, báo cáo báo chí, hình ảnh và nhiều loại thông tin xã hội khác". [2] Tin đồn thường bị xem là tin sai lạc (nguồn tin sai) hoặc tin nhảm (cố ý tung tin không thực từ chính quyền đến giới báo chí truyền thông). [3]
  • Truyền đơn
Truyền đơn phát tay hay thả từ máy bay là phương pháp thông tin tuyên truyền hữu hiệu. Trong chiến tranh, truyền đơn được tung vào những nơi đông dân cư trong phần đất của phe đối địch với thông tin làm lung lạc ý chí hoặc kêu gọi dân chúng nổi dậy, v.v...
  • Bích chương và những biểu tượng nơi công cộng
Tuyên truyền bằng cách nhồi nhét thông tin hoặc lặp đi lặp lại các khẩu hiệu để củng cố suy nghĩ một chiều trong quần chúng. Các bích chương, biểu ngữ, tượng đài ghi công, v.v.... được dựng lên trưng bày lâu dài trên đường phố, công viên, ... với mục đích nhắc nhở quần chúng về thành công và quyền lực của chính quyền, hoặc vĩ đại hóa lĩnh tụ. Thí dụ điển hình: Saddam Hussein, Joseph Stalin, Hồ Chí Minh. [cần dẫn nguồn]
  • Diễn văn, Diễn hành
Nhà nước tổ chức các buổi diễn hành, tập họp đông đảo dân chúng vào một khu công cộng để nghe tuyên truyền. Lĩnh tụ nhà nước đọc diễn văn ca ngợi thành tích của mình, của nhà cầm quyền, đồng thời chỉ trích và đe dọa các suy nghĩ đối lập. Ngoài ra còn cho diễn hành quân đội, biểu dương lực lượng, khích lệ lòng yêu nước và căm thù đối phương trong quần chúng. Thí dụ: Hitler và buổi diễn binh tại Nürnberg năm 1935. Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Trung Quốc cũng từng tổ chức những buổi diễn binh tương tự. [cần dẫn nguồn]
  • Báo chí, TV, Radio, Internet
Các cơ quan truyền thông như báo chí, radio và website do nhà nước quản lý sẽ đưa tin tức có lợi cho chính quyền, nêu cao thành tích nhưng đồng thời che giấu sai lầm của chính phủ. Ngay cả những cơ quan truyền thông độc lập cũng có thể bị nhà nước dùng trong tuyên tuyền. Kênh TV Fox News của Mỹ là một hãng thông tấn hoàn toàn tư nhân nhưng bị xem là thiên vị, ngả theo chiều hướng tuyên truyền có lợi cho chính phủ của tổng thống Bush.[4] Khả năng đọc thông tin trên internet tại một số quốc gia có thể bị hệ thống tường lửa của nhà nước kiềm chế. [cần dẫn nguồn]
  • Phim ảnh, Văn nghệ, Nghệ thuật
  • Hệ thống giáo dục
Thông tin tuyên truyền có lợi cho nhà nước có thể được giảng dạy trực tiếp trong các lớp học chính trị tại các trường mọi cấp. Sách vở tài liệu trong mọi môn học - nhất là lịch sử - đều có thể được biên soạn theo chiều hướng tuyên truyền. Thí dụ: hệ thống giáo dục của chính phủ kỳ thị Nam Phi.[5]

Các kỹ thuật tuyên truyền


Tranh vẽ tâng bốc Napoleon lên ngang hàng với các danh nhân lịch sử HannibalKarl Đại Đế (tên khắc trên phiến đá)
Năm 1936 học viện nghiên cứu tuyên truyền (Institute for Propaganda Analysis (IPA)) của thương gia Hoa Kỳ Edward Filene đưa ra 7 kỹ thuật tuyên truyền thường thấy là:[6]
  • Hùa theo: khích lệ cá nhân đi theo mục đích của đám đông
Khi một cá nhân thấy một đám đông tập hợp với một mục đích chung, cá nhân đó dễ bị lôi kéo theo với suy nghĩ "Chẳng lẽ cả đám này sai?" (They can't all be wrong!). Thí dụ cụ thể nhất là nhân dân Đức trong thời kỳ Adolf Hitler phát triển chủ nghĩa quốc xã.
  • Nhồi nhét: thiết lập thật nhiều dữ kiện thiên vị cho mục đích
Lập đi lập lại những dữ kiện một chiều để củng cố lòng tin trong quần chúng. Từ nhồi sọ dùng để chỉ phương pháp tuyên truyền làm thay đổi lâu dài, có thể của cả một thế hệ. Thí dụ: Phương pháp tuyên truyền dùng loa phát thanh liên tục lập đi lập lại đưa thông tin đến quần chúng.
  • Hoa hòe: dùng từ ngữ to lớn, lòe loẹt để tạo chấn động tâm lý quần chúng
Trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, giới chức Pháp với luận điệu xuyên tạc tâng trận chiến kinh hoàng Verdun làm chiến thắng của Pháp.[7] Thực chất, đây là trận đánh bất phân thắng bại và quân Đức tiêu diệt được rất nhiều lính Pháp trong trận chiến này.[8] Trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai những thành ngữ tiếng Anh thông dụng trong tuyên truyền: ‘Deserve Victory’, ‘Freedom is in Peril. Defend it with all your Might’, ‘Socialism the only Solution’, ‘Expropriate the Expropriators’, ‘Austerity’, ‘Evolution not Revolution’, ‘Peace is Indivisible’, ‘Hands off Russia’, ‘Make Germany Pay’, ‘Stop Hitler’, ‘No Stomach Taxes’, ‘Buy a Spitfire’, ‘Votes for Women’. Ngoài ra còn có sáo ngữ hô hào, ‘Go to it’, ‘Dig for Victory’, ‘It all depends on ME’, hoặc những từ gây ấn tượng của Winston Churchill như ‘the end of the beginning’, ‘soft underbelly’, ‘blood, toil, tears, and sweat’ và ‘never was so much owed by so many to so few’.[9]
  • Chửi bới: hạ nhục, mạ lị đối phương
  • Thường dân: đưa hình ảnh của mình như là một người đơn giản để tạo lòng tin và thân thiện với quần chúng
  • Chứng thực: dùng hình ảnh hay trích lời của một nhân vật nổi tiếng để đánh bóng cá nhân mình
Thí dụ: Các diễn viên điện ảnh nổi tiếng được mời lên tiếng ủng hộ cho các ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ.[10]
  • Tương đương: so sánh mình với những cá nhân khác từng được quần chúng tin tưởng.
Napoleon Bonaparte là một nhà độc tài chú trọng rất nhiều vào tuyên truyền để chiêu dụ quần chúng. Tranh vẽ thần thánh hóa ông được trưng bày nhiều nơi. Tuy ông là người nhỏ thấp, tranh vẽ về ông thường phóng đại kích thước của mình.[11] Quốc trưởng Adolf Hitler cũng luôn luôn tự coi ông là người kế tục của vị vua - chiến binh vĩ đại Friedrich II Đại Đế nước Phổ. Dù thế, Friedrich II Đại Đế là bậc anh quân đức độ do đó sự tuyên truyền này là sai lệch lịch sử, thực chất Nhà nước của Hitler cũng không giống với Nhà nước của vị vua - chiến binh xưa. [12][13][14]

Tuyên truyền ngày nay

Hầu hết các hệ thống chính trị ở các quốc gia đều sử dụng tuyên truyền. Điều này đặc biệt được sử dụng ở những vùng có nguy cơ bùng nổ xung đột và bất ổn.

Quốc tế

Quảng cáo đã trở thành hình thức hình thức tuyên truyền phổ biến nhất trên thế giới để các tập đoàncông ty quảng bá hình ảnh của mình cho mọi người với nhiều hình thức khác nhau. Từ các tờ rơi nhỏ bé cho đế các panel to đùng khắp nơi và từ khi internet ra đời thì việc quảng cáo ngày càng phát triển khi nó không có giới hạn về biên giới hay khu vực.

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Hàn Quốc

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên giữa năm 2009 đã cho chiếu hình ảnh từ đài truyền hình Hàn Quốc trên sóng truyền hình nhà nước. Tuy nhiên, chính phủ Bình Nhưỡng đã lựa chọn và biên tập đoạn băng cẩn thận để củng cố cho đường lối tuyên truyền rằng Hàn Quốc là một nơi khốn khổ.[15]
Đối lại, Hàn Quốc cũng thường xuyên đưa ra các cáo buộc rằng Triều Tiên là một quốc gia nghèo khổ, người dân thất học với nạn đói giết chết hàng triệu người, dù điều này chưa bao giờ được kiểm chứng.

Trung Quốc

Lần đầu tiên kể từ năm 1949 chính phủ Bắc Kinh Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã cho phép các phóng viên trong và ngoài nước lên Tân Cương để đưa tin giải thích về các vụ bạo động tại vùng này. [16]

Việt Nam

Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị quyết 36 với chủ trương giáo dục văn hóa tuyên truyền nhằm mục đích tạo thay đổi ý thức chính trị của Việt kiều ở nước ngoài. Họ biết rằng đa số những người Việt này (nhất là những người di cư sang Mỹ) sở dĩ phải ở nước ngoài vì họ hay cha anh họ muốn trốn tránh chính phủ Cộng sản sau 1975, việc tuyên truyền nhằm mục đích làm thay đổi cái nhìn thù địch của những người này với hệ thống chính trị trong nước. [17]

Hoa Kỳ

Sau vụ khủng bố 11 tháng 9, chính quyền Hoa Kỳ cũng ra sức tuyên truyền kích động quần chúng Mỹ ủng hộ những cuộc tấn công vũ trang vào các nước Trung Đông (đặc biệt là Afghanistan) để tiêu diệt mầm mống thế lực khủng bố. Tiếp đến, trong tiến trình mở rộng chiến cuộc vùng vịnh, Hoa Kỳ đưa ra trước Liên Hiệp Quốc những bằng chứng giả tạo cho thấy Iraq đang phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt. Sau khi quân đội Mỹ và đồng minh tấn công Iraq thành công và chiếm được Iraq họ mới phải thú nhận rằng những dữ kiện này sai lạc. [18]

Thế giới Hồi giáo

Tại nhiều nước Hồi Giáo, nhất là những nhóm tôn giáo cực đoan, tư tưởng chống phương Tây (nhất là Mỹ và Ixrael) được tích cực tuyên truyền. Những quốc gia phương Tây bị cho là đang "Tấn công các giá trị của đạo Hồi" cả bằng văn hóa lẫn quân sự, và người Hồi Giáo phải "thánh chiến" để chống lại "những kẻ ngoại đạo". Những người chết trong chiến đấu được coi là "tử vì đạo" và sẽ được ca tụng, các hình thức đấu tranh có thể bao gồm cả những hành động tấn công dân thường có chủ đích vốn bị lên án.

Chú thích

  1. ^ a b Jacques Ellul. Propaganda: The Formation of Men’s Attitudes. New York: Vintage Books, 1973
  2. ^ Propaganda Technique in the World War (1927; Reprinted with a new introduction, 1971)
  3. ^ Rumour: Oxford English Dictionary, 2nd ed., 1989
  4. ^ Fox News 'propaganda' says mogul
  5. ^ Education as a social institution and ideological process - Mbukeni Herbert Mnguni
  6. ^ A brief history of Propaganda
  7. ^ Cyril Falls, The First World War trang 163
  8. ^ Sir Alistair Horne, The Price of Glory: Verdun 1916, trang 331
  9. ^ Propaganda and Demotic Speech, George Orwell - Persuasion, 1944
  10. ^ Celebs add star power to '08 donor lists
  11. ^ The Genesis of Napoleonic Propaganda, 1796-1799. Wayne Hanley
  12. ^ David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, trang 6
  13. ^ Giles MacDonogh, Frederick the Great: A Life in Deed and Letters, các trang 5-6.
  14. ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 662
  15. ^ Bình Nhưỡng tuyên truyền Nam Triều Tiên là 'nơi khốn khổ'
  16. ^ Bắc Kinh áp dụng chiến lược tuyên truyền mới
  17. ^ NGHỊ QUYẾT 36 của Bộ Chính trị về Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài
  18. ^ Pitt, William R. War On Iraq: What Team Bush Doesn't Want You to Know. 2002, Context Books, New York. ISBN 1-893956-38-5.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tuy%C3%AAn_truy%E1%BB%81n

***

Các trang trong thể loại “Phim tuyên truyền”

78 trang sau nằm trong thể loại này, trên tổng số 78 trang.

3

A

B

C

E

E tiếp

G

H

K

L

M

N

P

P tiếp

S

T

V

X

Y

Đ

http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%83_lo%E1%BA%A1i:Phim_tuy%C3%AAn_truy%E1%BB%81n 


***

No comments:

Post a Comment