Friday, 27 July 2012

Sứ mạng mặc nhiên của Thuyền Nhân Việt-Nam

2012/07/27

Quách vĩnh Niên

Hiệp định Geneve 1954 qui định lấy vĩ tuyến 17 chia cắt Việt nam làm hai miền. Quân đội
hai bên phải rút về khu vực qui định trong vòng 300 ngày, trong thời gian nầy dân hai miền được quyền lựa chọn nơi sinh sống và sẽ được hỗ trợ trong việc di chuyển.

Ba trăm ngày, vâng, ba trăm ngày của hoảng loạn trên nửa phần phía Bắc của đất nước Việt nam, người dân Miền Bắc bất chấp mọi đedọa, khủng bố, bắt bớ, thậm chí thủ tiêu của Cộng sản Bắc Việt (CSBV) đã bồng bế dắt díu nhau xuống tàu xuôi Nam tìm tự do. Hà nội của ba mươi sáu phố phường, Hà nội của một thời đô hội bỗng chốc biến thành bãi tha ma với đoàn đoàn lớp lớp ma vương quỷ dữ lùng sục khắp nẻo hang cùng ngõ ngách, khủng bố, thủ tiêu lươngdân đã không hợp tác với chúng.

Non một triệu người Miền Bắc tay không chạy vào Nam nhưng họ lại có một niềm tin và một ý chí, ý chí chống Cộng đến cùng và niềm tin một Miền Nam Tự Do là môi trường tốt để họ đem hết tài năng và trí tụê phục vụ quốc gia dân tộc.

Hai mươi mốt năm sau, cái ngày 30/4/75 đau thương và nhục nhã! Lịch sử lại tái diễn! Lần nầy không phải nửa nước như thuở
1954 mà là cả nước ! Bọn quỷ đỏ từ Bắc tràn xuống, từ rừng sâu tràn ra, từ hầm hố chui lên, hàng hàng lớp lớp, súng nổ đạn rơi, thịt, xương, máu của lương dân là yến tiệc hả hê của bọn chúng. Người dân Miền Nam trong cơn hoảng loạn tột cùng, giống như tình trạng 1954, nhưng lần nầy không phải Vượt Tuyến vào Miền Nam ruột thịt mà Vượt Biên. Bằng đường biển? Bằng đường bộ? Đi đâu? ... Không cần biết. Chạy cái đã. Chạy bằng bất cứ phương tiện gì và bất chấp mọi gian lao nguy hiểm trước mặt. Lương dân bị kẹt lại Miền Bắc năm 1954 đắng cay, ngỡ ngàng: “Sao lạ vậy? Trong hai mươi mốt năm qua chúng tôi thầm cầu mong các anh giải phóng miền Bắc, giải phóng cuộc sống cơ cực như thú vật của chúng tôi để được có một ngày làm người rồi chết cũng vui, vậy mà ... thật không ngờ! ...”

Sau năm 75, đại đa số người Việt nam vượt biên bằng thuyền và danh từ thuyền nhân từ đó chỉ chung người Việt chạy ra nước ngoài tìm tự do. Thuyền nhân trước sau khoảng triệu rưởi người kể cả trên nửa triệu người bị chết trên biển, chết trên rừng và bị CSVN
bắt lại. Một Mẹ Trăm Con giờ nầy không phải năm mươi người theo cha xuống biển, năm mươi người theo mẹ lên non mà chạy tứ tản khắp nơi trên thế giới. Để làm gì? - Để tìm tự do. Chỉ có vậy thôi sao? – Không đâu.

Khi bước chân xuống thuyền, thuyền nhân Việt Nam Mặc Nhiên nhận lãnh một Sứ Mệnh, mang theo, bảo trọng và phát huy lá cờ Quốc
gia, cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tượng của tự dọ dân chủ mà hàng triệu con dân Việt của nhiều thế hệ đã hy sinh tính mạng để bảo vệ, lại nữa, thuyền nhân Việt còn mặc nhiên mang theo tinh hoa văn hóa Việt, ý chí bất khuất và lời hứa sẽ về giải phóng quê hương.

Năm
1954 non một triệu người Miền Bắc mang theo tất cả tinh hoa của xứ Bắc Hà vào cùng với người Miền Nam tiếp nối công trình của tổ tiên nhằm tài bồi văn hóa Việt và xây dựng một Miền Nam Tự Do, Phú Cường. Và lúc nào cũng nghĩ đến Miền Bắc đang đau thương và mong một ngày Việt nam sẽ thống nhất trong Tự Do, Dân Chủ. Trong lúc đó, tại Miền Bắc, ngay trong năm 1954, CSBV nhân danh XHCN đã triệt hạ tất cả mọi giá trị tinh thần, tẩy não người dân bằng mọi biện pháp vừa dã man vừa tinh vi. Thừa lệnh Nga cộng và Tàu cộng, đảng CSVN quyết biến người dân Miền Bắc thành âm binh chỉ biết suy nghĩ, hành động theo bùa chú của lãnh đạo.

Sau năm
1975, cũng cùng chủ trương chính sách đó, chính sách của duy vật biện chứng, của tam vô, đảng CSVN đã ra sức tẩy xóa tất cả, đốt tất cả, hủy diệt tất cả, khủngbố, bắt bớ, giam cầm tẩy não toàn dân Miền Nam. Người dân Miền Nam khiếp đãm, ngơ ngác, co cụm chịu đựng một cách vô thức, Sài gòn hòn ngọc viễn đông giờ nầy cùng chung số phận với Hà nội năm xưa, năm 1954. Sài gòn hoa lệ, Sài gòn văn minh và sầm uất bỗng chốc thành bãi tha ma cùng với âm binh VC gieo rắc kinh hoàng. Toàn cõi Việt nam bỗng chốc không còn gì cả, ngay cả tự thân cũng không còn biết mình là ai, một Việt Nam hoàn toàn vắng bóng Thượng Đế! Người có phương tiện thì ra đi bất kể tai họa chờ sẵn trên biển cả, người ở lại thì cam chịu đau thương khổ ải, con xa cha, vợ xa chồng, nheo nhóc, đói rách, lầm than và chịu đày đọa đủ chiều: kinh tế mới, làm thủy lợi không công với cái bụng đói meo, thanh niên xunh phong, đánh tư sản, đổi tiền .v.v... Đói quá, khổ quá đâm lì ra, cười khẩy bằng những bài vè.

Năm trăm đổi lấy một đồng.
Đồng bạc hóa đồng xu.
Người khôn đi học, thằng ngu dạy đời.

Hoặc:

Ngày xưa ở với ông nghè,
Nồi cơm bắt xuống nồi chè bắt lên.
Bây giờ ở với ông hương,
Cơm ăn không có nghĩ thương ông nghè.

Vân vân và vân vân ...

Người Việt trong nước lúc bấy giờ trong cơn tuyệt vọng vẫn cố bám một hoài bảo và ngóng trông. Bao lớp trai mới lớn uất ức đâm liều, tự động tổ chức vũ trang để rồi hàng ngàn người phải lãnh những bản án 20 mươi năm, chung thân và nhiều trăm người phải lãnh trái chanh tộng vào miệng (để khỏi la đả đảo CS) vào một buổi sáng tinh mơ trước khi bị đưa ra pháp trường lãnh những viên đạn nghiệt oan. Việt nam lúc bấy giờ là vuờn hoang nơi đó chủ
nhân ông CSVN tha hồ múa gậy. Thế giới làm ngơ, bọn phản chiến ở Mỹ, Úc, Âuchâu, Canada hả hê bằng lòng với thành quả đáng kinh tởm của họ. Nhân dân Việt Nam hoàn toàn cô đơn còn CSVN tha hồ nhi nhô, hành hạ, hiếp đáp, cầm tù và ăn cướp trắng trợn tài sản của nhân dân Miền Nam, lùng sục khắp nơi, những gì bỏ túi được thì nhanh tay, những gì cồng kềnh thì đã có hàng vạn chuyến Molotova chở ra Hànội. Ấy vậy nên người dân Miền Nam mỉa mai với hai chữ bộ đội có nghĩa là đi bộ vào Nam và đội của ra Bắc.

Người trong nước lúc bấy giờ trông chờ những gì?

Tất cả đều hướng về những người đã và đang ra đi lọt đến bến bờ tự do sẽ nói với thế giới những gì người ở lại không nói được, làm những gì cho quê hương mà người ở
lại không thể làm được. Tin tức cứ lọt về xuyên qua bức màn sắt làm nức lòng người dân, làm ấm lòng bao người trong chốn lao tù không hy vọng có ngày về. Trước trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York vào một buổi sáng lạnh giá một nhóm cả trăm người Việt có cả người già và trẻ em, dưới mưa tuyết, đứng im lặng với cờ vàng ba sọc đỏ và biểu ngữ đòi tự do, nhân quyền cho Việt nam và cuối cùng giải tán trong trật tự. Ôi xúc động thay! Chỉ mới có mấy năm mà người Việt hải ngoại trưởng thành được như vậy thì đáng tin tưởng quá. Những tin tức đại loại như vậy đã khuấy lên niềm tin và hy vọng cho người dân trong nước lúc bấy giờ.

Và ngày hôm nay, sau ba mươi bảy năm, tình hình Việt nam và thế giới đã thay đổi. CSVN đã lộ nguyên hình là một tập đoàn buôn dân bán nước, tham ô, nhũng lạm, cúi luồn Tàu cộng để làm chỗ dựa cho đảng bất kể ý nguyện của toàn dân. Nhằm vô hiệu sức phản kháng của toàn dân, CSVN nới lỏngsinh hoạt cho người dân muốn ăn thì ăn, muốn chơi thì chơi nhưng nếu không tiền
ăn chơi thì được tha hồ ăn cắp, bán thân, bán máu, có khả năng hơn thì móc ngoặc, luồn cúi quan chức nguyện làm đám thân dân hậu thuẫn để đảng vững mạnh.Người dân được khuyến khích sinh hoạt tâm linh, nhưng thứ tâm linh buôn thần bánthánh được khéo léo dìu dắt bỡi nhóm lãnh đạo tôn giáo quốc doanh. CSVN cố chứngtỏ cho thế giới thấy rằng người dân Việt nam có tất cả quyền tự do nhưng thực chất dân trong nước chỉ có một quyền tự do duy nhất đó là tự do chịu đựng đói khổ.

CSVN áp dụng phương sách ngu dân kiểu mới như
vừa kể để tha hồ vơ vét, ăn chơi trụy lạc. CSVN để mặc người dân muốn làm gì thì làm, nói gì thì nói miễn sao đừng tổ chức chống đảng là được, vì vậy mà giờ đây tình trạng xã hội trong nước trở nên tệ hại chưa từng có trong lịch sử. Đại đa số người dân bị tha hóa, mất gốc, cha không ra cha, con không ra con, vợ không ra vợ, chồng chẳng ra chồng, đường phố, công viên gái làng chơi, ma cô nhiều hơn người tử tế, ngôn ngữ Việt biến thái thành loại ngôn ngữ vừa nghèo nàn vừa thô tục. Học đường trở thành một thứ chợ trời buôn bán bằng cấp và nữ sinh, cô giáo còn bán cả thân xác nữa. Một xã hội chỉ có thứ ma cô, láu cá, khôn vặt, móc ngoặc và luồn cúi quan chức đảng nghiễm nhiên là giới ăn trên ngồi trước, tha hồ hưởng lạc trên thân xác các em, các cháu của muôn vạn gia đình đói nghèo.

Việt Nam là một trong những quốc gia được thiên nhiên ưu đãi nhất trên thế giới. Đồng bằng sông Cửu long là vựa lúa,
vựa cá, vựa rau quả không những đủ nuôi sống dân trong nước mà còn dư để xuất cảng nữa, đó là chưa kể đồng bằng sông Hồng. Rừng nhiệt đới ở Việt Nam bạt ngàn với đủ loại gỗ quý và thú hiếm, quặng mỏ kim loại không thiếu. Bờ biển Việt Nam với hơn ba ngàn cây số là nơi thu hút khách du lịch trên thế giới, Biển Việt nam có nhiều cá và thềm lục địa Việt nam chứa một trữ lượng dầu hỏa to lớn. Vậy mà ba mươi bảy năm sau ngày cái gọi là “giải phóng”, vẫn còn hơn bảy muơi phần trăm dân Việt nghèo khổ và trong số đó một số rất lớn phải bán thân, bán máu để nuôi miệng.

Đứng trước tình cảnh đó, một số ít người Việt còn liêm sỉ, còn chút tình tự dân tộc đành phải ngậm miệng khóc thầm, ôm đắng cay cho kiếp người, vận nước, đành chọn cuộc sống âm thầm và thiếu thốn.

Là người việt hải ngoại chúng ta nghĩ gì trước
nỗi hoài mong của người Việt trong nước? Trước họa mất nước cạnh kề? Trước một đất nước bị phá sản toàn diện bỡi tập đoàn CSVN ngu dốt, gian tham, tàn bạo và bán nước?

Bỡi lẽ biến cố mất nước 30/4/75 (vì CSVN là công
cụ của hết Nga cộng rồi tới Tàu cộng) suy cho cùng là trách nhiệm của toàn dân Miền Nam Việt nam. Lớn chịu trách nhiệm lớn, nhỏ chịu trách nhiệm nhỏ. Cái kinh nghiệm nhục nhã, đau thương còn mới toanh đó không lẽ chúng ta cứ còn đổ thừa loanh quanh cho nhau mãi sao, hay là tại Mỹ? Dĩ nhiên Hoa kỳ phải gánh chịu một phần trách nhiệm trong vấn đề nầy, còn phần lớn là trách nhiệm của chúng ta. Vận mạng Việt Nam trước tiên phải do người Việt đảm trách, mất nước, nhục nhã, lầm than,cơ cực trước tiên là bổn phận của toàn thể nhân dân Việt phải chung lưng đối cật để giải quyết. Nên nhớ rằng Việt nam chỉ là một điểm trong toàn bộ chiến lược toàn cầu của Hoa kỳ, mục tiêu tối hậu của Hoa kỳ là một thế giới trật tự trong đó mọi quốc gia phải tuân theo “luật chơi” để hài hòa phát triển. Một lẽ nữa, một dân tộc có tinh thần cao về tự lực, tự chủ, tự cường thì mới mong giành được độc lập thật sự. CSVN đang bằng mọi phương cách tinh vi xóa bỏ tinh thần nói trên của non chín mươi triệu người dân Việt hòng dễ cống hiến Việt nam cho Tàu cộng.

Đã đến lúc mọi người trong chúng ta nên tự đấm ngực nhiều lần lỗi tại ta, lỗi tại ta mọi đàng và có như vậy tâm ta mới lắng đọng
để ý thức được cái sứ mạng mặc nhiên của mỗi người.

Cộng đồng người Việt hải ngoại là chỗ dựa, là hậu phương của mặt trận chống cộng trong nước và suốt ba mươi bảy năm qua trước
sự lớn mạnh, thành đạt và trưởng thành của cộng đồng là nỗi ám ảnh, sợ hãi của CSVN, vì vậy chúng đã và đang liên tục tung người, tung của, vận dụng mọi khả năng để đánh phá, phân hóa cộng đồng, trong đó tòa đại sứ và lãnh sự quán Việt cộng là hang ổ chỉ lo một điều duy nhất kể trên. Đìều nầy nhắc nhở mọi người trong chúng ta phải tự nguyện là một chiến sĩ mới đối phó hữu hiệu được. Không nói năng viết lách điều gì vô tình làm lợi cho cộng sản đã là một chiến sĩ rồi. Tẩy chay những buổi trình diễn văn nghệ do nghệ sĩ trong nước ra trình diễn đã là một chiến sĩ rồi. Tuyệt đối không dùng ngôn từ của Việt cộng, tự nâng cao lập trường chống cộng, ý thức tự do dân chủ để phản bác được lý luận cùn của bọn tay sai, hạn chế gởi tiền về nước, hạn chế về Việt nam, nhất là về du lịch hay phè phỡn hưởng thụ đồ phế thải của bọn quan chức CSVN và bọn đại gia tiếp tay cho bạo quyền. Bảo trọng cờ vàng ba sọc đỏ và quốc ca Việt Nam Cộng Hòa là biểu tượng của tự do, dân chủ và nhân quyền và cũng là biểu tượng của mọi lực lượng chống cộng trong và ngoài nước. Mỗi người trong chúng ta, bất luận là ai nếu không tự nguyện chí ít làm việc nầy là phản bội chính mình, là bất nhân chà đạp lên nỗi cơ cực, nhục nhã của người Việt trong nước, là vô cảm trước nỗ lực đấu tranh bất chấp bị đánh đập, tù tội của người dân trong nước, nhất là lớp trẻ yêu nước.

Cao cả thay và quý trọng biết bao những người
Việt hải ngoại âm thầm hoạt động suốt mấy chục năm qua và vẫn còn tiếp tục không mệt mỏi, trong đó không biết bao nhiêu người không phân biệt tuổi tác, nam nữ đã đóng vai trò hoàn hảo của những chiến sĩ vô danh đem cả công sức, tiền bạc đóng góp vào công cuộc chung chỉ mỗi một ý nguyện làm tròn lời thề khì bước chân xuống thuyền vượt biên. Nhiều tổ chức, hội đoàn được hình thành cũng phát xuất từ tâm nguyện nầy, và trên hết là các đảng phái, mặt trận và tôn giáo cùng giới trí thức, kể cả trí thức trẻ đã hướng dẫn cộng đồng bảo tồn văn hóa Việt, điều mà CSVN đang ra sức xóa bỏ hay chí ít làm lu mờ dần bằng cách dùng bọn văn nô viết lại lịch sử, cải sửa ngôn từ, xuyên tạc mọi giá trị tinh thần Việt xét ra bất lợi cho chúng. Trí thức Việt hải ngoại đã vận dụng hữu hiệu chuyên môn của riêng mình để cán đán mọi việc chuẩn bị cho một Việt nam hậu Cộng sản với biết bao thành quả không thể kể hết.

Tuy nhiên trước tình thế cấp bách hiện nay chưa thấy dấu hiệu thống nhất chỉ đạo đấu tranh. Có nhìều tổ chức là đặc tính của môi
trường tự do dân chủ, nhưng kinh nghiệm đấu tranh vừa chống thực dân Pháp vừa chống Cộng sản của các tổ chức người Việt yêu nước từ năm 1930 cho đến nay cho chúng ta thấy có quá nhiều điều cần phải thành thật xét lại, nếu không, chúng ta sẽ khó hoàn tất công cuộc cứu quốc và kiến quốc hiện nay. Chúng ta cần gạc bỏ những trở ngại phát xuất từ trong ta như địa phương, cục bộ, thiếu tổ chức tính, kỷ luật tính, tùy tiện, tôn thờ cá nhân (vì cá nhân là bất toàn), tính công thần, cá nhân chủ nghĩa.v.v... Mục đích của tổ chức, đảng phái, thậm chí cả tôn giáo là nhằm phục vụ quần chúng và vì vậy phải lắng nghe tiếng nói của quần chúng, nếu không chúng ta sẽ đảo ngược giá trị bằng cách đòi hỏi quần chúng phục vụ tổ chức, từ đó mới xảy ra phân hóa, bỡi vì tổ chức, đảng phái, tôn giáo nào cũng tự cho mìnhlà nhứt. Ai cũng muốn làm người hùng (cá nhân chủ nghĩa) thì chẳng còn ai nghe ai và cuối cùng quần chúng có thể bị coi là phương tiện. Chúng ta chớ quên rằng có quần chúng mới có tổ chức, quần chúng mạnh tổ chức mới mạnh, quần chúng là tập hợp của đa số chiến sĩ vô danh đem lại sự thành công cho tổ chức, vì vậy ngay từ bây giờ các tổ chức và đảng phái chưa chịu ngồi lại với nhau dưới một mặt trận chung để thống nhất đường lối đấu tranh là coi thường cộng đồng, là tự khước từ sứ mạng mặc nhiên mà toàn dân Việt đang giao phó và nếu không làm được điều nầy không lẽ chúng ta lại mong một thế lực nước ngoài nào giải phóng Việt nam dùm cho chúng ta hay sao ? và không khéo chúng ta lại thua trận một lần nữa.

Những điều nói trên thật sự không mới mẻ nhưng
từ nhiều thế hệ qua chúng ta chưa thực hiện được. Mong sao đây là thời điểm các vị lãnh đạo tổ chúc, đảng phái, tôn giáo thực hiện được, trong đó mọi người trong cộng đồng góp chung tiếng nói là điều tối quan trọng. Nói cho cùng mọi việc đều phát xuất từ chữ TÂM mà thôi.

Quách vĩnh Niên

No comments:

Post a Comment